HÀNH TRIẾT (2): Nghệ thuật thực hành Triết Học

0
128
Giới thiệu: Đây là bài viết của một ngòi bút trẻ được viết theo phong cách suy tư và nghiên cứu Triết học (theo chuẩn bài nghiên cứu và trích dẫn). Tác giả (Tu sĩ Tôma Nguyễn Siêu Quốc) đã tham khảo ý kiến của những giáo sư triết khi viết bài này. Loạt bài nghiên cứu này sẽ được đăng làm 3 phần, đây là phần thứ hai. Truyền Thông Ngôi Lời Việt Nam xin mời quý vị yêu thích triết học “thưởng thức” bài viết này, và mong nhận được những góp ý cần thiết cho tác giả khi bắt đầu “hành triết”. Trân trọng!

👆 CHƯƠNG I >>>

Nghệ Thuật Thực Hành Triết Học

“Người hành triết sống tỉnh thức hơn với thái độ hiểu đời, biết đời và vượt hơn đời. Nghệ thuật sống thể hiện ở việc chọn một hướng đi, chọn một lẽ sống mà qua đó ta đạt được ý nghĩa đời mình”.

Tác giả: Super Quoc

CHƯƠNG II: HÀNH TRIẾT

1. Hành triết & nghệ thuật thực hành triết học

1.1 Hành triết là gì?

Hành triết là cách nói tắt của “thực hành triết học” nên hành triết đơn giản chỉ là việc đem triết học ra thực hành và áp dụng vào cuộc sống. Khái niệm tưởng chừng đơn giản như vậy nhưng lại là một vấn nạn, một thách đố lớn cho nền triết học của thời đại hôm nay. Một đống lý thuyết có thể khiến ta có vẻ tri thức và thông thái, nhưng chỉ có thực hành mới biến mình trở nên khôn ngoan. Nhiều người ngập đầu trong sách vở và lý thuyết, nhưng lại thiếu kiên nhẫn và kỷ luật để chuyển đổi tri thức đó thành kết quả cụ thể. Lý thuyết có thể “học biết” trong vài tuần hoặc thậm chí là vài giờ nhưng thực hành lại là một quá trình kéo dài suốt đời. Không cần phải tìm đâu xa, ngày nay chỉ với một vài cú “click”, người ta có thể tìm được mọi thông tin, mọi lý thuyết, mọi kiến thức. Với những phần mềm AI (trí tuệ nhân tạo), kiến thức không chỉ được tìm kiếm nhanh mà còn được hệ thống, được phân loại và đánh giá. Ngày xưa, việc “trên thông thiên văn dưới tường địa lý” là điều rất khó nhưng ngày nay đã khác, kiến thức lúc nào cũng sẵn sàng. Do đó, khái niệm về người khôn ngoan không còn đơn thuần là người biết nhiều, hiểu sâu, hiểu rộng nữa mà biết phải làm được, biết phải áp dụng được. Đó cũng chính là nghệ thuật “văn ôn, võ luyện”, không chỉ học, không chỉ biết mà còn phải rèn luyện.

1.2 Sự phân mảnh giữa lý thuyết và thực hành, giữa suy tư và hành động

Thử hỏi có bao nhiêu người dừng ở “biết” mà trở nên thành công? “Biết” thôi chưa đủ, “biết để làm gì”, “biết để làm thế nào” cũng chưa đủ, mà “biết” là phải làm được gì và làm được đến đâu. Đó mới chính là hành trình của cái biết đích thực, sự khôn ngoan phải đi từ khối óc đến đôi tay để tạo nên thành quả và kiến tạo nên giá trị. Ai cũng biết nước được tạo thành từ hai nguyên tố Hydro và Oxy: 2H2 + O2 → 2H2O, nhưng mấy ai đã làm thử thí nghiệm này chưa? Thoạt nhìn, việc tạo ra nước có vẻ đơn giản và về mặt lý thuyết thì chỉ cần trộn lẫn hai khí này lại là được. Thế nhưng, nếu chưa từng làm thì cái biết đó vẫn còn khá mơ hồ, mà nếu đã làm được rồi thì có thể làm được đến đâu? Ta có thể làm thí nghiệm tạo ra nước, vậy tại sao không tạo nước ở những vùng hạn hán, thiếu nước? Thực tế cho thấy phản ứng trên chỉ tạo ra hơi nước và không xảy ra phản ứng ở nhiệt độ thường mà cần nguồn nhiệt lượng cao. Do đó, tạo một vài giọt nước thì không sao, chứ tạo ra một lượng nước lớn thì phản ứng sẽ xảy ra vụ nổ, có thể gây nguy hiểm đến tính mạng. Như thế, biết lý thuyết là một chuyện nhưng ứng dụng lý thuyết đó vào thực thực tế lại là chuyện khác.

Hay một kiến trúc sư tốt nghiệp xuất sắc ở một trường đại học danh tiếng, vậy mà căn nhà do anh ta thiết kế ra lại thiếu thẩm mỹ, kết cấu không chắc chắn, thiếu thuận tiện mà lại tiêu tốn quá nhiều tiền. Nhiều người còn đánh giá chất lượng ngôi nhà chỉ ở mức “xoàng xoàng”, thậm chí còn thua những ngôi nhà do các chú thợ hồ có nhiều năm kinh nghiệm xây mà chẳng cần phải thiết kế. Cũng vậy, một học sinh học rất giỏi, điểm rất cao môn “Đạo Đức”, vậy mà khi ra đường gặp một người bị tai nạn, hay một người ăn xin té ngã không những không giúp đỡ, mà còn dửng dưng lấy điện thoại ra ghi hình. Có những người học “English” đến tận 12 năm, năm nào cũng được điểm cao nhưng lại không thể giao tiếp được. Một cha xứ giảng đạo rất hay nhưng lời chứng qua lối sống thì không thấy đâu. Thêm nữa, hàng loạt cao tăng “hô mưa gọi gió” trên mạng xã hội khiến người ta lầm tưởng rằng họ là những bậc chân tu đắc đạo nhưng hoá ra lại chẳng phải là người tu hành. Như vậy, việc nắm rõ lý thuyết mà thiếu tính thực hành, ứng dụng thì cũng giống như việc một võ sĩ biết hết mọi loại võ công, mọi chiêu thức nhưng chỉ để đàm đạo và tranh luận thôi, còn thực chiến thì “xin đầu hàng”. Người học triết cũng vậy, họ đang loay hoay, chật vật với một chiếc thuyền chở đầy lý thuyết mà “thiếu tay chèo”. Họ không biết phải chọn lý thuyết nào, không biết phải bắt đầu từ đâu và làm như thế nào. Do đó, có thể nói ngay cả nghiên cứu về “Triết học thực hành” cũng không đồng nghĩa với việc “thực hành Triết học”. Quả thật, nói hay suy tư đều là hành động, nhưng theo một nghĩa nào đó nó vẫn chưa phải là “làm”. Nói hay suy tư đều là điều tốt nhưng “làm” vẫn tốt hơn. Suy tư đáng giá và lời nói có sức thuyết phục đều phải được thể hiện bằng việc làm và những kết quả cụ thể. Do đó, nếu thực hành là phương thế hiện thực hoá lý thuyết thành những kết quả cụ thể thì cũng vậy, hành triết là phương thế làm cho Triết học tiến tới Minh triết nhanh hơn, cụ thể là đưa người hành triết tiến gần đến sự khôn ngoan hơn.

Quan điểm đề cao lý trí và lý luận đúng sai

Triết học ngày nay không những nặng nề về lý thuyết mà còn đề cao lý trí và lý luận “đúng-sai”. Có quá nhiều triết gia, học giả để tâm đến việc “đúng-sai” và coi việc “thắng-thua” như là một cách hành triết hiệu quả, về cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nhiều người đưa ra một tư tưởng giả thiết làm tiền đề, biến nó thành nguyên lý nền tảng rồi triển khai, tổ chức lại thành hệ thống, thậm chí, có người còn “nhốt mình” vào cái hệ thống đó luôn. Cái tư tưởng giả thiết tiền đề ấy tạo nên định kiến của tư duy khiến người ta phải cố gắng bảo vệ, trong khi kẻ khác lại tìm điểm yếu để bác bỏ. Như vậy, những cuộc tranh luận “đúng-sai”, “thắng-thua” dường như không bao giờ có hồi kết.

Trong khi trường phái duy lý thì xem lý tính là nguồn gốc của mọi tri thức hay mọi câu trả lời, thì trường phái duy nghiệm nhấn mạnh đến mối quan hệ chặt chẽ giữa tri thức và kinh nghiệm, còn trường phái duy tâm lại cho rằng mọi thứ đều thuộc về tinh thần, thuộc về ý thức… Thậm chí, còn nhiều trường phái khác nữa, rốt cuộc, trường phái nào đúng, trường phái nào sai? Chẳng ai hoàn toàn đồng tình với ý kiến của người khác, ai cũng cho rằng hệ thống triết học của mình là đúng nhất, khách quan nhất. Nhưng cuối cùng, ai cũng phải tạm chấp nhận rằng ai cũng đúng hết, chỉ là mình đặt tiền đề trên nền tảng nào và ủng hộ trường phái nào mà thôi. Do đó, đôi khi người ta hành triết chỉ nhằm thoả mãn cái tôi cá nhân và dùng Triết học để tô vẽ cho cái tôi của mình thêm bóng bẩy hơn. Đây là một thái độ hành triết đi ngược lại với tinh thần của Triết học, bởi lẽ, Triết học là yêu mến sự khôn ngoan với “cái nhìn toàn vẹn” và một “thái độ khiêm tốn”.

Nhìn lại lịch sử phát triển của Triết học, ta cũng thấy không ít người hành triết với thái độ khiêm tốn và cái nhìn rộng mở. Họ cống hiến cho nhân loại không ít thành quả tốt đẹp, những công trình khai sáng, những thành tựu to lớn. Đó mới là phương thế hành triết đáng tán dương và ủng hộ. Như vậy, quan niệm đề cao lý trí và lý luận “đúng-sai” không phải là một phương thế tốt để hành triết. Triết gia Francis Bacon cũng đã quả quyết rằng:

Dùng quá nhiều thì giờ vào việc học là lừ đừ; dùng quá nhiều sự học để trang hoàng là làm bộ; phán đoán hoàn toàn theo quy luật sách vở là tính khí của một học giả. Người tài lên án sự học; người ngu thán phục nó; người minh triết sử dụng nó, bởi vì sự học không dạy sử dụng chính nó, nhưng đây là một sự minh triết ở ngoài và bên trên sự học, đạt được nhờ quan sát([1]).

Bên cạnh đó, Sigmund Freud đã nghiên cứu và chỉ ra rằng lý trí hay ý thức chỉ đóng một rất nhỏ bé và hạn chế trong hoạt động tư duy và đời sống tinh thần của con người. Phần lớn nhất chính là vô thức. Nó bao gồm tất cả những thứ không dễ dàng có được trong nhận thức, chẳng hạn như những ký ức, động lực, bản năng, phức cảm, chấn thương tinh thần và những thứ thuộc về tinh thần khác mà chúng ta không thể chịu nổi khi đối diện với chúng…([2]).

Cụ thể hơn, Sigmund Freud cho rằng tâm trí con người chỉ có 1/10 hữu thức, 9/10 còn lại nằm trong “tiềm thức” vượt ngoài tầm kiểm soát của ý thức. Từ đó, ông phân chia bộ máy tư duy của con người thành ba phần: Ý thức (conscious), tiền ý thức (preconscious) và vô thức (unconscious); trong đó, tiền ý thức và vô thức được gọi chung là “tiềm thức”. Qua nhiều phân tích và nghiên cứu, ông nhấn mạnh phần lớn hoạt động tinh thần con người là do vô thức quyết định, còn ý thức chỉ hoạt động lẻ loi với vai trò nhỏ trong bộ máy tư duy và đời sống tinh thần của con người([3]). Điều này có thể hiểu là phần lớn hoạt động có ý thức đều có liên quan chặt chẽ đến vô thức, diễn ra trên nền của vô thức và được thúc đẩy bởi nhiều xung lực bản năng([4]). Mặc dù có không ít ý kiến trái chiều, nhưng khám phá này vẫn được xem như là một cuộc cách mạng trong nhận thức của nhân loại, ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực, trong đó có Triết học. Bởi lẽ, qua mọi thời người ta vẫn đề cao ý thức và coi ý thức như là toàn bộ tư duy của con người. Như vậy, tư duy nhận thức của con người không chỉ là những gì mình ý thức được nên nếu quá đề cao ý thức thì khá vội vàng và chủ quan.

Hơn thế nữa, tôi cho rằng con người là một chỉnh thể lớn và hoàn hảo. Chỉnh thể ấy còn bao gồm cảm xúc, tình cảm, đức hạnh, ý chí và nhiều phần khác chứ không chỉ là lý trí. Những phần ấy cũng có vai trò rất quan trọng không chỉ trong nhận thức mà con cả trong việc hành triết. Theo quan điểm của Triết Học Hiện Sinh, những vấn đề vượt quá giới hạn của con người thì cần phải nhìn nhận trong chiều kích siêu vượt cách đầy đủ hơn. Nếu muốn đưa tất cả mọi thứ vào một hệ thống “lý luận hình thức” thì khá phiến diện và chủ quan. Chẳng hạn, đối với tội lỗi, Kierkegaard đã nói như sau: “Muốn lấy lý luận để giải nghĩa sự hiện diện của tội lỗi trong thế giới, là muốn làm một việc điên rồ và chỉ những hạng người duy lý kỳ khôi mới hành động như thế”([5]). Ta phải chân nhận rằng lý trí con người còn rất giới hạn và luôn cần nhiều sự trợ giúp khác nữa. Thế nên, hành triết chỉ trọn vẹn và đầy đủ khi và chỉ khi con người thực sự đặt mình trong một chỉnh thể thống nhất và trọn vẹn. Thật vậy, quan niệm đề cao lý trí và lý luận “đúng-sai” không phải là một phương thế hành triết hữu hiệu. Hay nói cách khác, lối hành triết ấy còn rất xa cách đối với sự khôn ngoan đích thực mà ta muốn tìm kiếm.

1.3 Tri-hành hợp nhất

Qua những phân tích trên phải chăng thực hành đóng vai trò quan trọng hơn lý thuyết? Câu trả lời chắc chắn là không. Lý thuyết vốn đóng vai trò quan trọng trong việc dẫn đường, hướng dẫn thực hành đúng đắn để mang lại kết quả tốt nhất. Lý thuyết chỉ bị coi nhẹ khi và chỉ khi lý thuyết đó sáo rỗng, sai lầm, thiếu thực tế. Tuy nhiên, cũng có quan điểm khẳng định rằng lý thuyết phải phục vụ thực hành([6]), và đó mới là phương thế hữu hiệu trong việc hành triết.

Đối với các triết gia cổ đại, học là để sống và dấn thân vào cuộc sống và lý thuyết phải áp dụng được vào cuộc sống thì sự học đó mới đáng giá. “Triết học không cốt ở việc giảng dạy một lý thuyết trừu tượng – càng không phải ở việc chú giải các văn bản – mà là ở nghệ thuật sống”([7]). Do đó, họ quan niệm rằng việc biết lý thuyết trừu tượng, hay nặng nề về tranh biện thì chưa biết thấu đáo, chưa biết đến nơi đến chốn. Chỉ ngang qua thực hành, rèn luyện ta mới biến kiến thức đã học thành một một kinh nghiệm sống, lúc đó ta mới có nhận thức thực thụ([8]). Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa coi nhẹ và bác bỏ vai trò của lý thuyết, mà đưa lý thuyết vào chiều kích thực hành, cái mà ngày nay vẫn gọi là “học phải đi đôi với hành”.

Thế nhưng, “học phải đi đôi với hành” là cứ học cái gì là ứng dụng ngay vào thực tế phải không? Nếu học lý thuyết nào thì cũng cần áp dụng ngay vào thực tiễn để kiểm tra, đánh giá thì liệu rằng ta có đủ thời gian để áp dụng hết mọi lý thuyết không? Ấy là chưa nói có những lý thuyết nhảm nhí, hỗn độn. Nếu mà không sàng lọc, không biết lý thuyết nào là tốt là đúng để đem ra thực hành hoá ra gàn dở. Cách “học đi đôi với hành” đó cũng không ổn, lợi bất cập hại. Do đó, để thực hành đúng và hiệu quả, ta cần phải có sự khôn ngoan trong việc học cũng như chọn lựa những lý thuyết đúng đắn, phù hợp.

Triết gia Aristotle cũng đưa ra khái niệm “khôn ngoan thực tiễn” (practical wisdom) như là một hướng dẫn cho việc hành triết đúng đắn. Khái niệm này là sự kết hợp giữa ý chí đạo đức và kĩ năng tinh thần. Có thể hiểu nôm na là muốn thực hành phải biết đúng là gì, chọn cái đúng và sau đó, can đảm thực hiện điều đó dù cho khó khăn như thế nào. Khôn ngoan thực tiễn thể hiện ở chỗ biết suy tính những gì là tốt nhất, là thiết thực nhất cho bản thân mình để có được cuộc sống tốt nhất về mọi mặt([9]). Khái niệm này giống như là kim chỉ nam cho việc thực hành một cách khôn ngoan, biết sàng lọc, biết định hướng, biết phân định và biết ra quyết định. Đây cũng là lối đi cho việc hành triết hướng đến cuộc sống tốt lành hơn, hay nói cách khác là sống đẹp, sống tốt.

Hơn thế nữa, bàn về việc “học phải đi đôi với hành”, thậm chí Vương Dương Minh còn hợp nhất cả hai điều này thành một, gọi là “tri-hành hợp nhất”. Thông thường, tri và hành được hiểu là hai cái tách biệt, tri là cái hiểu biết, còn hành là việc làm, biết xong rồi mới làm. Chính vì thế, khoảng cách giữa tri và hành, giữa biết và làm nó ở xa nhau, có khi chả ăn nhập gì nhau. Từ đó, sinh ra trường phái thiên lệch về thực hành coi nhẹ lý thuyết và ngược lại thiên lệch quá về lý thuyết mà bỏ bê thực hành. Tuy nhiên, quan niệm tri và hành của Vương Dương Minh không giống như lối hiểu thông thường. Ông cho rằng tri và hành, cả hai là một, đều xuất phát từ một gốc nên không cần phải có bước chuyển tiếp hay cần phải có sự khôn ngoan thực tiễn để suy xét. Thuyết “tri-hành hợp nhất” có ba ý chính làm chủ chốt:

Thứ nhất, chưa bao giờ có tri mà không có hành, tri mà không hành, thì chưa phải là tri; thứ hai, tri là bước đầu của hành còn hành là kết quả của tri; thứ ba, tri đến đúng đắn, cặn kẽ, thiết thực là cái tri đạt được ở trong hành, còn hành mà sáng suốt rạch ròi là hành nhờ có tri([10]).

Như vậy, phương thế hành triết hiệu quả là làm cho lý thuyết và thực hành được ăn khớp, liền mạch, hợp nhất với nhau. Tri và hành đến nơi đến chốn cũng nhờ bổ khuyết cho nhau mà việc hành triết trở nên tốt đẹp.

Tóm lại, qua định nghĩa về hành triết và một vài góc nhìn hướng dẫn cho việc hành triết, ta thấy hành triết chưa bao giờ là một điều dễ dàng mà phải cần rất nhiều nỗ lực, dấn thân, sự khôn ngoan thực tiễn và thái độ khiêm tốn triết học. Nếu không, người hành triết sẽ dễ đi sai đường, dễ lạc vào những hệ thống định kiến nghèo nàn của tư duy cũng như thái độ thiên lệch, đề cao lý trí, đề cao bản thân quá mức. Không những thế, hành triết còn là một nghệ thuật thực hành triết học mà qua đó, người hành triết như một nghệ sĩ đích thực cho cuộc đời mình hầu giải phóng, phát triển và hoàn thiện bản thân mỗi ngày một hơn.

2. Hành triết là nghệ thuật sống

2.1 Hành triết là hành trình thao luyện tinh thần

Pirerre Hadot khi bàn về Triết học đã đưa ra một khái niệm rất quan trọng có thể xem như là lối đi cho việc hành triết. Đó là “những cuộc thao luyện tinh thần” (spiritual exercises). Nói đến thao luyện cũng chính là nói đến nỗ lực thực hành, rèn luyện với sự tập trung cao độ. Chẳng hạn khi quan sát một quá trình thao luyện của một võ sĩ, ta thấy võ sĩ ấy tập luyện miệt mài các bài quyền, các thế võ, các loại kỹ năng chiến đấu. Anh ta chú trọng vào sức mạnh, độ bền, thân pháp và ngay cả việc ăn uống, nghỉ ngơi. Hay một vận động viên điền kinh phải thực hành những bước chạy vượt chướng ngại vật, chạy bền, chạy nước rút, nâng kỷ lục về đích với từng mili giây (ms). Phàm là tay đua, còn phải kiêng kỵ đủ điều nhưng bao nhiêu đó vẫn là chưa đủ. Họ còn phải thao luyện một tinh thần thép, một thái độ điềm tĩnh, tinh thần kỷ luật, lòng kiên trì, tính bản lĩnh, sự lì lợm… thì mới có cơ hội đạt được huy chương vàng, đạt được chức vô địch. Hầu hết các vận động viên vô địch thế giới đều khổ luyện từ lúc chỉ mới 3-4 tuổi. Họ khổ luyện cả tinh thần lẫn thể xác với một hành trình dài đầy gian nan, thử thách. Còn đối với người hành triết, việc thao luyện không quá chú trọng vào rèn luyện thể chất, không thao luyện mang tính chất đối kháng, không mang tính thắng thua mà đòi hỏi nhiều sự thăng tiến về mặt khôn ngoan và đức hạnh. Lẽ dĩ nhiên, thao luyện đó cũng là một “thao luyện đổ máu”, thậm chí còn khốc liệt hơn rất nhiều, nơi mà người hành triết phải chết đi cái tôi ích kỷ của mình, chết đi những xấu xa, tội lỗi, chết đi cả chính con người mình. Cũng có thể nói hành triết là hành trình thao luyện tâm hồn hầu giúp ta có thể tấn tới về mặt tinh thần, trí tuệ, đức hạnh bằng những chết đi, những biến đổi từ ngay chính bên trong con người mình.

Cụ thể hơn, sau nhiều khảo luận nghiên cứu về Triết Học Cổ Đại, Pierre Hadot cho rằng những sinh hoạt triết học phải ưu tiên về biến đổi tinh thần của người học hơn là chú trọng vào học thuyết. Ngày xưa, người ta viết ra các tác phẩm triết học, chính vì nó là tiếng vang trực tiếp hoặc gián tiếp của việc giảng dạy bằng miệng. Do đó, những tài liệu đó như một tập hợp các bài tập, nhằm mục đích thực hành và hướng dẫn phương pháp thực hành, hơn là một sự trình bày học thuyết([11]). Thay vì tiếp thu một kiến ​​thức trừu tượng thuần tuý, những bài thao luyện tinh thần này chú trọng vào những biến đổi nhỏ bên trong tâm hồn của người hành triết. Cùng với đó là những nỗ lực làm cho Triết học trở nên sống động bằng chính đời sống của mình hơn là giảng dạy và nói về nó. Theo Xenophon, khi Hippias yêu cầu Socrates định nghĩa về công lý thì ông đã trả lời như sau: “Thay vì nói về nó, tôi làm cho nó được hiểu bằng hành động của mình”([12]). Như đã biết, triết gia thời cổ đại được đào tạo không chỉ để biết cách ăn nói, tranh luận và hùng biện mà còn phải biết cách sống. Mục tiêu của nó không gì khác hơn là một nghệ thuật sống, và vì vậy những bài thao luyện tinh thần cũng chính là những bài thao luyện học cách sống một cuộc sống triết học([13]). Điều đó có nghĩa là sự thao luyện hướng con người đến một cuộc sống biết kiểm thảo, biết tự vấn, biết hiện thực hoá những khát vọng của mình bằng lối sống của mình.

Bên cạnh đó, thao luyện tinh thần còn là một phương thế giúp người hành triết ở lại với chính mình, đối thoại với chính mình và sống với chính mình. Nó khuyến khích người ta chú ý đến bản thân, chăm sóc bản thân, hiểu biết bản thân và đào luyện bản thân. Con người ta có thể ở bất cứ đâu, sống bất cứ đâu, đối thoại với bất cứ ai nhưng hiếm khi ở với chính mình, sống với chính mình và đối thoại với chính mình. Hành trình thao luyện đòi hỏi người hành triết không chỉ đấu tranh với chính mình mà còn phải thắng vượt chính mình. Trước khi khám phá về thế giới, vũ trụ hay tha nhân, có lẽ con người cần phải quay về để khám phá chính bản thân mình nhiều hơn. Như vậy, hành trình thao luyện tinh thần với những bài tập cụ thể chính là phương thế giúp cho người hành triết hoàn thiện chính mình hướng con người đến sự khôn ngoan và điều thiện hảo.

2.2 Hành triết như là nghệ thuật sống

Sống đã là triết lý rồi, lối sống nào mà chẳng ngụ một triết lý trong đó. Cách nói “bình dân nửa mùa” như vậy khiến ta thấy “huề vốn”, “nói như không nói” nhưng nó rất đúng. Có người quan điểm đời là vật chất và có tiền là tất cả nên họ sống hết mình vì điều đó. Người khác lại cho rằng sống là phải hưởng thụ, và họ cháy hết mình vì điều ấy. Người khác nữa quan niệm sống là yêu thương và kiếm tìm hạnh phúc, họ dấn thân cho điều đó. Những thái độ sống ấy cũng chính là triết lý sống nên có thể nói rằng có bao nhiêu lối sống là có bấy nhiêu cách hành triết. Thế nhưng, hành triết như thế nào cho đúng, và sống như thế nào cho đáng sống mới khó. Bởi lẽ, nếu cuộc sống nào cũng là triết lý, và ai cũng là triết gia, thì triết lý hay triết gia sẽ không là gì và sống như thế nào mà chẳng được. Tuy nhiên, làm triết học là thức tỉnh chính cuộc sống của mình, là một nghệ thuật sống để sống ý nghĩa hơn, hạnh phúc hơn. Marcel Deschoux cũng đã viết như sau: “Điều cần thiết ở đây, và cũng là căn bản, đó là làm triết lý, nghĩa là cho đời ta một hướng đi”([14]). Do đó, dù ít dù nhiều người hành triết sống tỉnh thức hơn với thái độ hiểu đời, biết đời và vượt hơn đời. Nghệ thuật sống thể hiện ở việc chọn một hướng đi, chọn một lẽ sống mà qua đó ta đạt được ý nghĩa đời mình.

Mỗi người là một triết gia đích thực cho cuộc đời mình

Bên cạnh đó, hành triết cũng làm cho mỗi người trở thành một triết gia đích thực cho cuộc đời mình. Qua những tìm hiểu ở trên, triết gia là người chưa nắm giữ được giữ chân lý nơi mình nhưng triết gia biết khởi sự từ chính con người nhỏ bé, từ cuộc sống thường nhật của mình. Họ không ngừng nỗ lực dấn thân, từng bước tiến lên phía trước, nhấc mình lên với chân lý, dự phần vào sự khôn ngoan của thần thánh. Họ sống trọn vẹn ý nghĩa đời mình trên hành trình hướng đến Chân Thiện Mỹ. Lẽ dĩ nhiên, ta chưa phải triết gia và cũng không phải là triết gia, ta không bằng những con người ấy nhưng tinh thần minh triết thôi thúc ta và mặc lấy cho ta tinh thần và thái độ sống ấy. Sau bao nhiêu năm học Triết, ta đã học và tìm hiểu đủ mọi lý thuyết, mọi trường phái, mọi phương pháp thực hành. Ta đồng tình với triết gia này một ít, triết gia kia một chút. Ta nghiêng chiều về trường phái này, ta ấn tượng với lối hành triết kia và ta cũng có những ưu tư của riêng mình… Sau một chặng đường dài như thế, ta biết rằng không có lý thuyết nào là hoàn toàn đúng, chẳng có câu trả lời nào xác đáng trọn vẹn, cũng chẳng có đáp án chung cho tất cả mọi người. Có lẽ, ta cũng phải chọn cho mình một lối đi, một triết thuyết, một niềm tin để sống và dấn thân vào cuộc sống. Thời gian của mỗi người đều rất giới hạn, ta không thể chờ đợi mãi, ta phải đánh cược, ta phải hành triết bằng tất cả những giới hạn của mình, với chính cuộc hiện sinh của mình. Đôi khi, “lựa chọn ấy khiến tôi phải trả giá nhưng tôi biết đó là lối đi của tôi, triết lý của tôi và niềm tin của tôi”. Như vậy, hành triết không chỉ kiến tạo lối sống đẹp và ý nghĩa mà còn là nghệ thuật sống giúp mỗi người trở thành triết gia đích thực cho cuộc đời mình.

(Đón đọc phần III)

Chú thích:

[1] Nguyễn Thu Phong, Minh Triết trong Tư Tưởng Phương Tây (Hồ Chí Minh: Tổng Hợp, 2002), 259.

[2] C. George Boeree, Theories of Personality in Psychology (Philadelphia: Shippensburg University Press, 2005), 5.

[3] Phạm Minh Hạc, Học Thuyết và Tâm Lý Học Sigmund Freud (Hà Nội: Giáo dục Việt Nam, 2013), 153-155.

[4] Đỗ Thị Thuỳ Trang, “Nhận Thức Luận trong Phân Tâm Học của Sigmund Freud,” Tạp Chí Khoa Học Xã Hội, số 1 (293). năm 2023: 12.

[5] Trần Thái Đỉnh, Triết Học Hiện Sinh (Hà Nội: Văn Học, 2015), 96.

[6] Pierre Hadot, Ca Ngợi Triết Học Thời Thượng Cổ, 28-29.

[7] Pierre Hadot, Philosophy as a Way of Life, trans. Michael Chase, edited with an Introduction by Arnold I. Davidson (Massachusetts: Blackwell Publishing, 1995), 83.

[8] Pierre Hadot, Ca Ngợi Triết Học Thời Thượng Cổ, 29.

[9] Aristotle, Nicomachean Ethics, trans. W. D. Ross (Oxford: Clarendon Press, 1925; Internet Classics Archive, n.d.), bk. 6, https://classics.mit.edu/Aristotle/nicomachaen.6.vi.html, 5-11.

[10] Giản Chi & Nguyễn Hiến Lê, Đại Cương Triết Học Trung Quốc I (Hà Nội: Thanh Niên, 2004), 679-680.

[11] Pierre Hadot, Philosophy as a Way of Life, 21.

[12] Xenophon, Memorabilia, trans. Amy L. Bonnette (New York: Cornell University Press, 1994), Book IV, Chapter 4,10, 130.

[13] Pierre Hadot, La Philosophie Antique: une Ethique ou une Pratique? (Paris: Éditions Gallimard, 1995), 12-14.

[14] Marcel Deschoux, Initiation à la Philosophie, 3.

_____________

THƯ MỤC THAM KHẢO

  1. Tài Liệu Nguồn

Plato. Apology. Translated by Benjamin Jowett. Oxford: Oxford University Press, 1871.

Plato. Laches. Translated by Benjamin Jowett. Chicago: Independently Published, 2020.

Plato. Meno. Translated by Benjamin Jowett. Chicago: Independently Published, 2023.

Plato. Phaedo. Translated by F. J. Church. New York: The Liberal Arts Press, 1871.

Plato. Symposium. Translated by Benjamin Jowett. Chicago: Independently Published, 2021.

Plato. The Banquet of Plato. Translated By Percy Bysshe Shelley. Chicago: Way and Williams Publishers, 1895.

Plato. The Republic Of Plato, Translated with introduction and notes by Francis Macdonald Cornford. New York: Oxford University Press, 1941.

Plato. Theaetetus. Translated by M. J. Levett. Indianapolis: Hackett Publishing, 1992.

Xénophon. Helléniques; Apologie de Socrate; Les Mémorables. Paris: Garnier-Flammarion, 1967.

Xenophon. Memorabilia. Translated and Annotated by Amy L. Bonnette. New York: Cornell University Press, 1994.

 

  1. Tài Liệu Tham Khảo

Boeree, C. George. Theories of Personality in Psychology. Philadelphia: Shippensburg University Press, 2005.

Brickhouse, Thomas C. and Smith, Nicholas D. The Philosophy of Socrates Conception. Boulder: Westview Press, 2000.

Bùi Tuần. Triết Học và Học Triết. Long Xuyên, 1988.

Bùi Văn Nam Sơn. Trò Chuyện Triết Học. Hà Nội: Tri Thức, 2006.

Burnet, John. Greek Philosophy Thales to Plato. London: Macmillan and Co, 1943.

Cicero, Marcus Tullius. Lucullus. Chicago: Independently Published, 2022.

Đậu Văn Hồng. Triết Sử Tây Phương Thời Thượng Cổ. Hà Nội: Tôn Giáo, 2015.

Deman, Th. Socrate et Jésus. Paris: Choureau et C, 1994.

Descartes, René. Principes de la Philosophie, Lettre à L’abbé Picot, Adain et Jannery. Paris: Henry Le Gras, 1647.

Deschoux, Marcel. Initiation à la Philosophie. Paris: P.U.F., 1961.

Giản Chi & Nguyễn Hiến Lê. Đại Cương Triết Học Trung Quốc I. Hà Nội: Thanh Niên, 2004.

Gregory, Vlastos. Socrates, Ironist, and Moral Philosopher. New York: Cornell University, 1991.

Hadot, Pierre. La Philosophie Antique: une Ethique ou une Pratique?. Paris: Éditions Gallimard, 1995.

Hadot, Pierre. Ca Ngợi Triết Học Thời Thượng Cổ. Dịch giả Đậu Văn Hồng. Hà Nội: Tôn Giáo, 2002.

Hadot, Pierre. Philosophy as a Way of Life. Translated by Michael Chase. Massachusetts: Blackwell Publishing, 1995.

Honderich, Ted. Hành trình cùng Triết học. Dịch giả Lưu Văn Hy. Hà Nội: Văn hóa thông tin, 2002.

Jowett, Benjamin and Knight, M.J. Plato Chuyên Khảo. Dịch giả Lưu Văn Hy & Trí Tri. Hà Nội: Văn Hóa Thông Tin, 2008.

Jullien, Francois. Minh Triết Phương Đông & Triết Học Phương Tây. Dịch giả Nguyên Ngọc. TP Đà Nẵng: Đà Nẵng, 2003.

Lão Tử. Đạo Đức Kinh. Dịch giả Nguyễn Hiến Lê. Hồ Chí Minh: Tổng Hợp, 2006.

Lao-tzu’s. Taoteching. Translated by Red Pine. San Francisco: Mercury House Publishing, 1996.

Lawhead, William F. The Voyage of Discovery: A historical introduction to Philosophy. Stamford: Cengage Learning, 2013.

Lý Minh Tuấn. Đông Phương Triết Học Cương Yếu. Hồ Chí Minh: Trẻ, 2003.

Nguyễn Thu Phong. Minh Triết trong Tư Tưởng Phương Tây. Hồ Chí Minh: Tổng Hợp, 2002.

Nguyễn Tiến Dũng. Lịch sử Triết học phương Tây. Hà Nội: Khoa Học Xã Hội, 2015.

Phạm Minh Hạc. Học Thuyết và Tâm Lý Học Sigmund Freud. Hà Nội: Giáo dục Việt Nam, 2013.

Phạm Văn Đức. Giáo Trình Triết Học Mác-Lênin. Hà Nội: Chính Trị Quốc Gia Sự Thật, 2019.

Plato. Socrates Tự Biện. Dịch giả Nguyễn Văn Khoa. Hà Nội: Tri thức, 2006.

Sarah, Kofman. Socrates: Fictions of a Philosopher. New York: Cornell University Press, 1998.

Taine, H. Les Philosophes Francais du XIX siècle. Paris: L. Hachette et C,1858.

Tantray, Mudasir Ahmad and Khan, Tariq Rafeeq. Problems of Greek Philosophy. Chhattisgarh: Rudra Publications, 2021.

Taylor, C.C.W. Socrates: A very short introduction. Oxford: Oxford University, 2001.

Thiên Phong Bữu Dưỡng. Triết Học Quan. Sài Gòn: Văn Đàn, 1968.

Trần Thái Đỉnh. Triết Học Hiện Sinh. Hà Nội: Văn Học, 2015.

Trần Thái Đỉnh. Triết Học Nhập Môn. Hà Nội: Ra Khơi, 1951.

Trần Văn Hiến Minh. Triết Học Tổng Quát. Hà Nội: Ra Khơi, 1961.

W Jaeger. Paideia, la Formation de L’homme Grec. Paris, 1964.

Wadsworth. On Socrates. Belmont: Wadsworth Publishing, 2000.

 

III. Tài Liệu Internet & Tạp Chí

Aristotle. Nichomachean Ethics. Translated by W. D. Ross. Oxford: Clarendon, 1926, Internet Classics Archive, n.d. http://classics.mit.edu/Aristotle/nicomachaen.2.ii.html.

Littré, Le Dictionnaire de la Langue Française. Chicago: University of Chicago Press, 1982; Internet Classics Archive, n.d. https://dvlf.uchicago.edu/mot/philosophie.

Lê Tôn Nghiêm. “Socrates Tiêu Biểu cho Triết Học Hiện Sinh hay Triết Học theo Chân Lý Vương Giả?.” triethoc.edu.vn. Thứ 6, ngày 26 Tháng Tư, 2013. http://triethoc.edu.vn/vi/truong-phai-triet-hoc/triet-hoc-hy-lap/socrate-phan-2_44.html.

Đỗ Thị Thuỳ Trang. “Nhận Thức Luận trong Phân Tâm Học của Sigmund Freud.” Tạp Chí Khoa Học Xã Hội. Số 1 (293). Năm 2023: 12.

Hadot, Pierre. “Physique et Poésie dans le Timée de Platon.” Revue de Théologie et de Philosophie. Vol 115. Năm 1983: 113-133.

 

Bài trướcCHƯƠNG II: MẦU NHIỆM CỦA MÙA VỌNG
Bài tiếp theoLỜI SỐNG (Thứ Tư, Tuần 1 MV)