IMMANUEL
♦ Lm. Giuse Phạm Duy Thạch, SVD chú giải
Bản văn và dịch sát nghĩa (Mt 1,18-25)
Việt | Hy Lạp |
18 Gốc tích của Đức Giêsu Kitô là như thế này. Khi bà Maria, mẹ Người được đính hôn với ông Giuse, trước khi họ về với nhau, bà bị phát hiện mang thai (có trong lòng) từ Thánh Linh.
19 Ông Giuse, chồng của bà, là một người công chính và không muốn tố giác bà, đã quyết định để bà đi cách kín đáo. 20 Trong khi ông đang suy tính những điều ấy thì kìa sứ giả của Chúa hiện ra với ông trong qua giấc mơ, nói rằng: “Hỡi ông Giuse, con của Đavid, đừng sợ lấy Maria làm vợ mình vì bào thai trong bà là từ Thánh Linh. 21 Bà sẽ sinh một con trai, và ông phải gọi tên Người là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ. 22 Tất cả việc này xảy ra là để lời của Chúa qua vị ngôn sứ được hoàn trọn: “Này trinh nữ sẽ có thai và sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên cậu bé là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. 24 Khi tỉnh ngủ, ông Giuse làm như sứ giả của Chúa đã truyền cho ông và đón vợ ông về. 25 và ông không biết bà cho đến khi bà sinh một con trai và ông gọi tên cháu bé là Giêsu. |
18 Τοῦ δὲ Ἰησοῦ Χριστοῦ ἡ γένεσις οὕτως ἦν. μνηστευθείσης τῆς μητρὸς αὐτοῦ Μαρίας τῷ Ἰωσήφ, πρὶν ἢ συνελθεῖν αὐτοὺς εὑρέθη ἐν γαστρὶ ἔχουσα ἐκ πνεύματος ἁγίου.
19 Ἰωσὴφ δὲ ὁ ἀνὴρ αὐτῆς, δίκαιος ὢν καὶ μὴ θέλων αὐτὴν δειγματίσαι, ἐβουλήθη λάθρᾳ ἀπολῦσαι αὐτήν. 20 ταῦτα δὲ αὐτοῦ ἐνθυμηθέντος ἰδοὺ ἄγγελος κυρίου κατ᾽ ὄναρ ἐφάνη αὐτῷ λέγων· Ἰωσὴφ υἱὸς Δαυίδ, μὴ φοβηθῇς παραλαβεῖν Μαρίαν τὴν γυναῖκά σου· τὸ γὰρ ἐν αὐτῇ γεννηθὲν ἐκ πνεύματός ἐστιν ἁγίου. 21 τέξεται δὲ υἱόν, καὶ καλέσεις τὸ ὄνομα αὐτοῦ Ἰησοῦν· αὐτὸς γὰρ σώσει τὸν λαὸν αὐτοῦ ἀπὸ τῶν ἁμαρτιῶν αὐτῶν. 22 τοῦτο δὲ ὅλον γέγονεν ἵνα πληρωθῇ τὸ ῥηθὲν ὑπὸ κυρίου διὰ τοῦ προφήτου λέγοντος· 23 ἰδοὺ ἡ παρθένος ἐν γαστρὶ ἕξει καὶ τέξεται υἱόν, καὶ καλέσουσιν τὸ ὄνομα αὐτοῦ Ἐμμανουήλ, ὅ ἐστιν μεθερμηνευόμενον μεθ᾽ ἡμῶν ὁ θεός. 24 ἐγερθεὶς δὲ ὁ Ἰωσὴφ ἀπὸ τοῦ ὕπνου ἐποίησεν ὡς προσέταξεν αὐτῷ ὁ ἄγγελος κυρίου καὶ παρέλαβεν τὴν γυναῖκα αὐτοῦ, 25 καὶ οὐκ ἐγίνωσκεν αὐτὴν ἕως οὗ ἔτεκεν υἱόν· καὶ ἐκάλεσεν τὸ ὄνομα αὐτοῦ Ἰησοῦν. (Matt. 1:18-25 BGT) |
Bối cảnh
Đây là câu chuyện đầu tiên trong năm câu chuyện về thời thơ ấu và giáng sinh của Đức Giêsu: (i) Gốc tích của Đức Giêsu (1,18-25); (ii) Những vị vị khách từ Phương Đông (2,1-12); (iii) Tẩu thoát khỏi Aicập (2,13-15); (iv) Vụ thảm sát hại các hài nhi (2,16-18) và (5) Hành trình trở về từ Aicập (2,19-23). Đức Giêsu, bà Maria và ông Giuse là ba nhân vật trung tâm nối kết tất cả các câu chuyện này. Đoạn văn 1,18-25 được đặt ngay sau đoạn nói về gia phải của Đức Giêsu (1,1-17), trong đó Đức Giêsu được mô tả thuộc dòng dõi ông Ápraham và dòng dõi vua Đavid. Tuy nhiên, người nối kết trực tiếp với dòng dõi vua Đavid không phải là Đức Giêsu mà là ông Giuse, chồng của mẹ Người. Đoạn văn này như muốn lý giải nguồn gốc Đavid của Đấng Kitô, qua trung gian là ông Giuse và nhất là nguồn gốc từ trời của Người.
Cấu trúc
Ngoài phần dẫn nhập chung (Mt 1,18a), Mt 1,18b-25 có thể được chia thành ba phần: (I) Vấn nạn của ông Giuse (18-19); (II) Giải thích và trao ban sứ vụ cho ông Giuse (20-22) // (III) Đón nhận và thực thi sứ vụ (23-25).
Dẫn nhập: Sự giáng sinh của Đức Giêsu Kitô xảy ra như thế này.
(I) Vấn nạn của ông Giuse (18-19) Bà Maria, mẹ Người được đính hôn với ông Giuse, trước khi họ về với nhau, bà bị phát hiện mang thai từ Thánh Linh. Ông Giuse, chồng của bà, là một người công chính không muốn tố giác bà, đã quyết định để bà đi cách âm thầm. (II) Giải thích và trao ban sứ vụ (20-22) a.Đừng sợ lấy Maria làm vợ mình b.Bà sẽ sinh một con trai, c.Ông phải gọi tên Người là Giêsu, (III) Thực thi sứ vụ (24-25) a’.Làm như sứ giả của Chúa: Đón vợ ông về. b’.Bà sinh một con trai c’.Ông gọi tên cháu bé là Giêsu |
Một số điểm chú giải
- Gốc tích: Thuật ngữ “ἡ γένεσις”, được nhắc lại, nối kết chặt chẽ với câu đầu tiên của Tin Mừng Mátthêu: “Sách gia phả của Đức Giêsu Kitô” (Βίβλος γενέσεως Ἰησοῦ Χριστοῦ 1,1). Thuật ngữ này vừa có nghĩa là “gốc tích/nguồn gốc”, “gia phả”, hay “sự sinh ra”. Thuật ngữ này được dùng trong sách Sáng Thế theo hai nghĩa: (1) Gốc tích/nguồn gốc trời đất (St 2,4: αὕτη ἡ βίβλος γενέσεως οὐρανοῦ καὶ γῆς); (2) Gia phả (St 5,1), đi kèm theo một danh sách tên riêng. Trong bối cảnh này, có thể hiểu như là “gốc tích” hay “sự giáng sinh”. Câu dẫn nhập “đây là gốc tích của Đức Giêsu” có thể là dẫn nhập cho riêng đoạn văn 1,18-25, nhưng cũng có thể là dẫn nhập cho phần mở rộng toàn thể trình thuật Giáng Sinh và thời thơ ấu (1,18 – 2,23).
- Đính hôn … trước khi về với nhau …đưa bà Maria về làm vợ mình … đón vợ ông về: Tương quan của bà Maria và ông Giuse được xác định rất rõ ngay từ đầu. Bà Maria đã được đính hôn[1] với ông Giuse. Theo luật lệ Do Thái, sau khi đính hôn người phụ nữ, trên danh phận, đương nhiên đã là vợ của người đàn ông mà họ đính hôn. Nếu hai người chia tay nhau thì cũng xem là ly dị và nếu người đàn ông đi lính và chết trận, người phụ nữ sẽ trở thành “quả phụ”.[2] Tuy nhiên, có một khoảng thời gian giữa đính hôn và “đi về với nhau” (συνελθεῖν). Khoảng thời gian chờ đợi này thường kéo dài khoảng một năm (Đnl 22,24; St 19,14). Trong khoảng thời gian đó, dĩ nhiên, họ chưa được phép quan hê vợ chồng, nên không thể có con được. Khi biết được suy tính thầm kín của ông Giuse, không đón bà Maria về với mình, sứ giả của Chúa đã lập tức đến gặp ông Giuse để khuyên ông đón bà về làm vợ. Cuối cùng, ông Giuse đã nghe theo lời của sứ giả của Chúa và đón vợ ông về, hoàn tất thời gian đính hôn đầy trắc trở, tưởng như tan vỡ. Tình trạng gia đình của Maria-Giuse có thể được mô tả ngắn gọn như sau: Đã đính hôn – dự định về với nhau – Maria có thai từ Thánh Linh – dự tính ly hôn âm thầm – tác động của sứ giả của Chúa – không ly hôn nữa – về với nhau – không ăn ở với nhau – cộng tác vào kế hoạch cứu độ của Chúa.
- Bà Maria mẹ Người … ông Giuse chồng bà: Trong khi bà Maria được định danh là “mẹ Người” (μητρὸς αὐτοῦ), thì ông Giuse được định danh là “chồng của bà” (ὁ ἀνὴρ αὐτῆς, nghĩa đen, người đàn ông của bà). Danh phận vợ-chồng của ông Giuse và bà Maria được nói đến nhiều lần trong đoạn văn này: “Được đính hôn với ông Giuse” (được gả) (1,18); “Ông Giuse, chồng bà” (1,19); “Maria vợ của ngươi” (1,20); “Vợ của ông” (1,24). Trong trình thuật này, dường như tác giả, tránh gọi ông Giuse là cha của Đức Giêsu. Trong trình thuật về gia phả trước đó, ở điểm kết nối cuối cùng theo mạch văn, “ông này sinh ông kia” (ông Máthan sinh ông Giacóp, ông Giacóp sinh ông Giuse…), lẽ ra, câu văn phải là “ông Giuse sinh Đức Giêsu”. Tuy nhiên, tác giả lại chuyển đổi cấu trúc theo hướng khác: “Ông Giacóp sinh ông Giuse, chồng của bà Maria, Người mà từ đó, Đức Giêsu, còn gọi là Đấng Kitô được sinh ra” (Mt 1,16). Tác giả dường như muốn tránh đi sự hiểu lầm về nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu. Tác giả Luca, khi Đức Giêsu khai mạc sứ vụ, tác giả Luca giới thiệu về Người trong tương quan với ông Giuse rằng: “Đức Giêsu, như vẫn được giả định, là con của ông Giuse” (Lc 3,24). Cũng giống như tác giả Mátthêu, Luca dường như cũng tránh những hiểu lầm về thần tính của Đức Giêsu.[3]
- Bị phát hiện có thai từ Thánh Linh: Động từ “bị tìm thấy” (bị phát hiện, εὑρέθη), được chia thể thể bị động. Tác nhân của động từ này, rất có thể chỉ một mình ông Giuse. Hay nói đúng hơn, chỉ một mình ông phát hiện và biết rõ sự bất thường về bào thai này. Điều này dẫn đến việc ông quyết định để bà ra đi cách âm thầm. Cùng với cách gọi tránh “ông Giuse, chồng của bà” (không phải là cha của Đức Giêsu) là mặc khải về sự can thiệp của Thánh Linh trong mầu nhiệm trinh thai của bà Maria. Ông Giuse đương nhiên biết rõ mình không phải là tác nhân của bào thai ấy, ông chỉ không hiểu là nó từ đâu mà thôi. Cụm giới từ “từ Thánh Linh” (ἐκ πνεύματός ἐστιν ἁγίου, giải thích nguồn gốc của việc bà Maria thụ thai cách lạ lùng. Muốn hiểu thêm về tác động của Thánh Linh trên việc “thụ thai” này, thì độc giả phải đọc thêm câu chuyện “truyền tin cho bà Maria” của tác giả Luca (Lc 1,26-38). Trong câu chuyện ấy, bà Maria đã thắc mắc rằng: “Chuyện ấy sẽ xảy ra cách nào vì tôi không biết người nam (quan hệ nam nữ)” (ἄνδρα οὐ γινώσκω: Lc 1,34). Sứ giả giả giải thích rằng: “Thánh Linh sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ bao phủ trên bà, vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35). Ông Giuse không biết cách thức thế nào, nhưng qua lời sứ giả của Chúa, ông hiểu được Thánh Linh là căn nguyên của mầu nhiệm trinh thai này. Nhiều dạng khác nhau của Thánh Linh được tìm thấy trong Tin Mừng Mátthêu: Thánh Linh (1,18.20; 3,11; 12,32; 28,19), Thần Khí của Chúa (3,16; 12,28); Thần Khí (4,1; 12,31; 22,43) và Thần Khí của tôi (12,18). Thánh Linh có vai trò đặc biệt trong cuộc đời của Đức Giêsu nhập thể từ lúc Người thụ thai cho đến lúc Người chịu dìm trong nước (3,16); Chịu cám dỗ (4,1); Và lúc Người thi hành sứ vụ (12,18.28.31.32). Thánh Linh cũng tiếp tục hiện diện đồng hành và hướng dẫn Hội Thánh ngay từ thuở sơ khai cho đến hôm nay. Trong bối cảnh bà Maria thụ thai, có thể hiểu Thánh Linh như là tác nhân của sự sáng tạo, tương tự như sự việc Thần Khí Thiên Chúa đã hiện diện trong lúc Thiên Chúa sáng tạo thế giới: “Thần Khí của Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1,2). Thánh Linh ở đây có nghĩa là quyền năng sáng tạo của Thánh Linh.[4]
- Người công chính[5] (“δίκαιος ὢν καὶ”: Vì là một người công chính nên/ Dẫu là một người công chính nhưng…): Liên từ “καὶ” (nhưng, và) và động từ eimi ở thể hiện tại phân từ “ὢν” (being) là hai yếu tố mấu chốt trong việc chú giải về “sự công chính” của thánh Giuse.
Nếu chúng ta hiểu “καὶ” được hiểu là “nhưng”, thì danh từ “δίκαιος” (sự công chính) của thánh Giuse là công chính theo lối giữ Lề Luật. Luca cho chúng ta biết rằng: Cả Dacaria và bà Anna, “đều là người công chính trước mặt Chúa, sống đúng với mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì” (Lc 1,6). Như thế, công chính là sống đúng với điều răn và lề luật Chúa. Vậy, sự công chính của Giuse là phải giữ Lề Luật phải tố cáo, đưa vụ việc ra xét xử theo Luật Cựu Ước (Đnl 22,20-21), “nhưng” ông không muốn làm mất mặt cô. Và khi đó cụm động tính từ “δίκαιος ὢν” có thể được dịch rằng: “Dẫu/tuy là người công chính”. Cả câu sẽ là: “Dẫu/tuy là người công chính nhưng ông không muốn làm mất mặt cô”.[6] Trong trường hợp này, chúng ta thấy được, quyết định của thánh Giuse vượt quá sự công chính theo lối “giữ Lề Luật”. Quyết định không tố giác người bạn đời biểu lộ lòng xót thương và sự hiền lành trong con người của thánh Giuse.[7] Sự công chính này nên được soi rọi trong ánh sáng lời mời gọi của Đức Giêsu dành cho các môn đệ: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn những người kinh sư và những người Pharisêu thì chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5,20). Sự công chính của các kinh sư và những người Pharisêu có thể là sự công chính của những người “giữ Lề Luật” một cách cứng nhắc, nhưng lại sống “giả hình” (Mt 23,1-32). Sự công chính của thánh Giuse rõ ràng đạt đến cảnh giới Đức Giêsu mời gọi và là gương mẫu lý tưởng cho các môn đệ.
Trường hợp thứ hai, liên từ “καὶ” được hiểu là “và”. Khi đó, sự công chính của thánh Giuse được định hình, quy định theo hành động phía sau đó. Trong trường hợp này, cụm tính từ “δίκαιος ὢν” có thể dịch theo nghĩa nguyên nhân (vì là một người công chính). Cả câu sẽ trở thành: “Vì ông Giuse, chồng của bà, là người công chính, nên không muốn làm mất mặt bà, mà quyết định để bà ra đi một cách âm thầm”. Như thế, sự “công chính” của thánh Giuse là biểu hiện của lòng thương người, lo lắng cho người bạn đời của mình. Cũng có thể, thánh Giuse tin tưởng vào Bà Maria và ngầm hiểu mầu nhiệm của Thiên Chúa đang thực hiện trên cuộc đời cô, nên ông đành rút lui. Có thể, bà Maria đã có dịp tâm sự với thánh Giuse về mầu nhiệm này. Vợ chồng tâm sự những chuyện trọng đại như thế với nhau là chuyện thường. Sự công chính này còn là sự công chính của lòng tin và tôn trọng ý định của Thiên Chúa. Khi sứ thần gặp thánh Giuse “trong giấc mơ” có khích lệ rằng: “Giuse con vua Đavid, đừng sợ đón Maria, vợ ông về”. “Nỗi sợ này” có thể là nỗi kính sợ “mầu nhiệm của Chúa” trên cuộc đời vị nương tử yêu dấu. Tác giả B. Newman – P. Stine đề xuất ba cách hiểu tính từ “công chính”: (1) Một người vâng phục những mệnh lệnh của Chúa, một người ngay thẳng, một người cá tính; (2) Tử tế hoặc có lòng thương xót (25,37-40; 10,41); (3) Tốt (x. Tv 145,17).[8]
Sự công chính là một trong những ý tưởng chủ đạo trong Bài Giảng Trên Núi (Mt 5 – 7), bài giảng đầu tiên trong năm bài giảng của Đức Giêsu theo tác giả Mátthêu. Nhiều cách diễn tả khác nhau liên quan đến sự công chính được nhắc đến trong bài giảng này: “Đói và khác sự công chính” (5,6); “bị bách hại vì sự công chính” (5,10); “ trừ khi sự công chính của các ngươi vượt trên sự công chính của các kinh sư và những người Pharisêu” (5,20), “thực hiện những hành động công chính” (6,1); “Hãy tìm kiếm vương quốc của Chúa và sự công chính của Người” (6,33). Có thể nói răng ông Giuse đã vươn đến đức công chính mà Đức Giêsu mời gọi trong Bài Giảng Trên Núi.
- Quyết định để bà đi một cách kín đáo: Động từ “ἀπολύω” là một động từ ghép bao gồm động từ “λύω” có nghĩa là “tháo”, “cởi”, và một giới từ “ἀπò” có nghĩa là “khỏi”, “từ”. Động từ này thường được dùng cho các tù nhân theo nghĩa là “thả tự do”, “phóng thích”. Trong quy định về hôn nhân, động từ này được dùng diễn tả hành động ly dị. Trong truyền thống Do Thái cổ xưa, chỉ có người đàn ông, người chồng được có quyền ly dị người vợ. Người chồng có quyền viết chứng thư để đuổi vợ đi, cho vợ đi (x. Mt 5,31; Đnl 24,1-3). Trong bối cảnh này có thể hiểu sát nghĩa động từ này là “để cho bà đi” hay nghĩa tòa án là “ly dị”, nhưng nên nhớ rằng, quyền chủ động nằm ở người chồng, ông Giuse, chứ không phải nơi bà Maria. Trạng từ “một cách âm thầm” (kín đáo) nằm giữa hai động từ “quyết định” và “để cho đi”, có thể bổ nghĩa một trong hai động từ, nên có thể hiểu là “quyết định cách âm thầm” hay “để cho đi” một cách âm thầm. Trong trường hợp thứ nhất, ông Giuse không nói với ai, hay bàn với ai, hay ngay cả nói với bà Maria bằng một chứng thư chính thức. “Một cách âm thầm” có thể hiểu như là “không xử phạt” hay “không xử công khai và không công bố tội trạng”.[9] Trong trường hợp thứ hai, có thể, ông nói với bà Maria bằng một chứng thư, nhưng không công khai cho người khác biết.
Quy định sách Đệ Nhị Luật liên quan đến người đính hôn ngoại tình: “Nếu một thiếu nữ đã đính hôn với một người đàn ông, và một đàn ông gặp nàng trong thành và đã nằm với nàng, các ngươi sẽ mang cả hai ra nơi cổng thành ấy mà ném đá chúng cho đến chết: Thiếu nữ bởi lẽ là ở trong thành mà đã không kêu cứu; và người đàn ông, bởi lẽ đã hãm hiếp vợ người đồng loại. (Và) ngươi sẽ quyét sạch sự dữ khỏi giữa ngươi” (Đnl 22,23-24).
- Sứ giả của Chúa hiện ra …qua giấc mơ: Sứ giả của Chúa được sử dụng nhiều lần trong Tin Mừng Máthêu, đặc biệt trong trình thuật Giáng Sinh (1,18,24; 2,13.19; 28,2). Sứ giả là người được Chúa sai đến và mang thông điệp hay hành động thay Chúa. Sứ giả thường xuất hiện qua “giấc mơ”. Trong Máthêu, “giấc mơ” là phương tiện thường xuyên Thiên Chúa sử dụng để tỏ lộ ý định của Người. Trong Do Thái giáo những giấc mơ được chấp nhận như là phương tiện mặc khải thần linh.[10] Rất nhiều lần các nhân vật trong Cựu Ước lãnh nhận mặc khải thần linh qua giấc mơ: Các tổ phụ (St 28,12; 31,24; 37,5-10); Vua Salômôn (1 V 3,5), thậm chí những người ngoại (St 20,3; 40,5; 41,1). Hai nhân vật nổi tiếng về giải thích những giấc mơ trong Cựu Ước là ông Giuse và Daniel. Chúng ta có thể liên tưởng đến tổ phụ Giuse, người thường có những giấc mơ và ông Giuse, chồng của bà Maria, cũng là người hay có những giấc mơ đặc biệt. Có thể nói rằng, trong Tân Ước, ông Giuse là người giao tiếp với thế giới thần linh qua giấc mơ nhiều nhất. Tác giả Mátthêu sử dùng sáu lần cụm từ “trong giấc mơ”, thì hết năm lần cho ông Giuse, lần duy nhất còn lại cho bà vợ ông Philatô. Điều đặc biệt là ông Giuse hoàn toàn tin theo và làm theo những chỉ dẫn trong giấc mơ. Sứ giả gọi ông Giuse là “con vua Đavid”, giống với danh xưng mà tác giả giới thiệu Đức Giêsu trong bản gia phả (Mt 1,1-17). Như thế, danh xưng “con của Đavid rất quan trọng, vì nó xác định dòng máu vương đế của ông Giuse và qua đó xác định nguồn gốc Mêsiah vương đế nơi Đức Giêsu. Đức Giêsu được giới thiệu là “con cháu của vua Đavid, con cháu của tổ phụ Ápraham”. Người sinh ra trong thành Bết-le-hem, thành của vua Đavid. Nhiều lần Người được gọi là “con vua Đavid” (Mc 10,47.48).
- Gọi tên Người là Giêsu (Ἰησοῦς): Danh xưng này là một tên gọi khá quen thuộc trong truyền thống Do Thái. Danh xưng này có nguồn gốc từ tiếng Do Thái ([;WvAhy>) hoặc ([;WvAy>), gồm có danh xưng “Chúa” (יהוה) ghép với động từ “cứu” ([vy), có nghĩa là Chúa cứu/ giúp. Đây chính là tên của người đã thay thế ông Môsê, dẫn dân đi qua song Giorđan, tiến vào đất hứa, ông Giôsuê. Sứ giả giải thích rõ ràng lý do ông Giuse phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, “vì Người sẽ cứu dân của mình khỏi tội lỗi của họ”. Ý tưởng này được lấy lại trong Tv 130,8: “Người Cứu dân Người Israel khỏi tất cả tội lỗi của họ”. Sứ mạng của Đấng Mêsiah là rất rõ ràng. Người không thi hành quyền lực chính trị, phản kháng lại ách thống trị của ngoại bang, nhưng là thực thi quyền lực trên tội lỗi, là căn nguyên của sự chết. Sứ mạng này được thể hiện qua việc nhiều lần Đức Giêsu công bố ơn tha tội cho các bệnh nhân (mt 9,2.5; Mc 2,5.9; Lc 5,20.23). Đặc biệt, trong lời nguyện trên chén rượu trong đêm Tiệc Ly, chỉ riêng Đức Giêsu của Máthêu công bố “ơn tha tội cho nhiều Người” nhờ máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu sẽ đổ ra trên thập giá. Sự kết hợp giữa cái chết hy sinh và giao ước được nói đến nhiều lần trong Cựu Ước (Xh 24,8; Is 53,12; Gr 31,31.34; Dcr 9,11), đặc biệt là Is 53,12 nhấn mạnh đến sự đau khổ và cái chết của người tôi tớ nhằm xóa tội cho người ta.
Đối chiếu lời trên chén rượu qua các tác giả | |||
Mt 26,28 | Mc 14,24 | Lc 22,20 | 1 Cr 11,25 |
Vì này là máu Thầy, máu Giao Ước đổ ra nhiều người được ơn tha tội. Và Thầy bảo anh em: Từ nay Thầy sẽ không còn uống đến hoa quả giống nho này nữa, cho đến này ấy, ngày Thầy sẽ uống thứ mới với các ngươi trong Nước Cha Thầy” | Và Ngài nói với họ: “Này là máu Thầy, máu giao ước, đổ ra vì nhiều người. | Và chén sau bữa ăn, cũng như vậy mà rằng: “Chén này là giao ước mới trong máu Thầy, phải đổ ra vì anh em” | Cũng vậy về chén, sau khi đã dùng bữa tối xong, Ngài nói: Chén này là Giao ước mới trong Máu Thầy, anh em hãy làm việc này mỗi khi uống mà nhớ đến Thầy. |
- Lời của Chúa qua ngôn sứ được hoàn trọn: Tin Mừng Mátthêu được mệnh danh là Tin Mừng của sự “hoàn trọn”, vì hơn ai hết, tác giả Mátthêu luôn móc nối các mầu nhiệm trong cuộc đời Đức Giêsu với Sách Cựu Ước (x. 2,15.17.23; 4,14; 8,17; 12,17; 13,35; 21,4; 27,9). Hướng đi này cũng dễ hiểu, vì độc giả của ông là những người Do Thái, và Sách Thánh là một phần trong văn hoá và tôn giáo của họ. Câu trích dẫn được lấy từ Is 7,14, ngoại trừ danh xưng Giêsu. Câu trích này được đưa ra trong bối cảnh vua Giuđa (đất nước Miền Nam) là Ahaz đang bị liên minh Syria và vương quốc miền Bắc (Épraim) bao vây. Thiên Chúa sai ngôn sứ Isaiah đến trấn an vua Ahaz, và hứa rằng liên minh ấy sẽ bị đánh tan. Ngôn sứ Isaiah gợi ý cho vua Ahaz xin một dấu từ Chúa, Thiên Chúa, nhưng vua Ahaz không xin, lấy lý rằng ông sẽ không thử thách Chúa. Tuy vậy, ngôn sứ Isaiah vẫn truyền cho ông một dấu: “Này, một thiếu nữ sẽ mang thai và sinh một con trai, và ngươi phải gọi tên nó là Immanuel”. Danh từ “הָעַלְמָ֗ה” (ha alma) trong tiếng Do Thái có nghĩa là một cô gái trẻ, chưa sinh con. Bản dịch tiếng Hy Lạp (LXX) chuyển danh từ nay thành “παρθένος” (parthênos) có nghĩa là một trinh nữ và tác giả Mátthêu trích lại từ bản dịch tiếng Hy Lạp. Câu trích của Is 7,14 thoả mãn hai điều trong mầu nhiệm mang thai của bà Maria: (1) Một trinh nữ; (2) Sinh một người con trai. Tên “Immanuel” trong lời ngôn sứ Isaiah, được tác giả Mátthêu đổi thành “Giêsu” nhằm nhấn mạnh đến vai trò cứu độ của Người. Tuy nhiên, “Thiên Chúa ở cùng” cũng bao hàm vai trò cứu độ và giải thoát. Quan điểm này được tìm thấy trong lời của ông Ghiđêon. Khi sứ giả của Chúa nói cùng ông “Chúa ở cùng ông” (יְהוָ֥ה עִמְּךָ), ông đã than thở rằng: “Nếu có Chúa ở cùng chúng tôi, thì làm thế nào chúng tôi phải gắp những vấn đề này?” (bị quân Midian xâm chiếm, x.Tl 6,12-13). Việc Tin Mừng Mátthêu không có trình thuật thăng thiên, khiến các học giả nghĩ rằng tác giả Máthêu muốn xây dựng Tin Mừng trong khung thần học “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Trong khi Tin Mừng Luca và Máccô đều kết thúc bằng biến cố Đức Giêsu lên trời, Tin Mừng Mátthêu kết thúc bằng lời bảo đảm của Đức Giêsu: “Này, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). “người con trai” trong bối cảnh gốc của lời ngôn sứ Isaiah có thể hiểu là con trai của vua Ahaz, nghĩa là vua Hedêkiah.[11] Tuy nhiên, cách nói “nhà Đavid” trong 7,13 trước đó cho phép hiểu rộng hơn về “người con trai” có danh xưng là “Emmanuel” này. Chính vì thế, tác gải Mátthêu áp dụng cho chính câu bé Giêsu.
Is 7,14:
לָ֠כֵן יִתֵּ֙ן אֲדֹנָ֥י ה֛וּא לָכֶ֖ם א֑וֹת הִנֵּ֣ה הָעַלְמָ֗ה הָרָה֙ וְיֹלֶ֣דֶת בֵּ֔ן וְקָרָ֥את שְׁמ֖וֹ עִמָּ֥נוּ אֵֽל׃ Chúa Chúa sẽ ban cho ngươi một dấu: “Này, một thiếu nữ sẽ mang thai và sinh một con trai, và ngươi phải gọi tên nó là Immanuel” |
- Làm như sứ giả của Chúa đã truyền: Làm như sứ thần truyền bao gồm hai điều: (1) Đón bà về nhà mình; (2) Gọi tên đứa bé là Giêsu; (3) Không biết bà cho đến khi bà sinh một con trai. Theo mạch văn kể chuyện, dường như ông Giuse đón bà Maria về liền sau khi tỉnh giấc, bất chấp thời gian chờ đợi vẫn chưa hết (sau khi tỉnh dậy, ông Giuse làm như sứ giả Chúa đã truyền cho ông”, Mt 1,24). Điều này vừa giúp bà Maria tránh được lời qua tiếng lại về bào thai mà bà mang trước khi về với ông Giuse, vừa cho thấy sự mau mắn của ông Giuse trong việc đáp trả lại lời mời gọi của Chúa. Toàn bộ những hành động này cho thấy ông Giuse đã thay đổi kế hoạch “rút lui” cách âm thầm của mình và cũng thay đổi kế hoạch “lập gia đình” lúc ban đầu với bà Maria. Kế hoạch “xây tổ ấm” của ông từ đây trở đi là kế hoạch cộng tác hoàn toàn vào chương trình cứu độ của Chúa. Đặt tên là đảm nhận chức vụ làm cha về mặt pháp lý. Những hành động của ông Giuse làm rõ ý nghĩa đặc tính “công chính” của ông mà tác giả đề cập ở 1,19. Đó là sự công chính của Người luôn chọn lựa và thực thi ý Chúa. Người thực thi ý muốn của Chúa Cha, Đấng ngự trên trời, là anh, chị, em và là cha (được ngụ ý), mẹ của Đức Giêsu (Mt 12,50; Mc 3,31-35; Lc 8,19-21).
- Không “biết” bà cho đến khi (οὐκ ἐγίνωσκεν αὐτὴν ἕως): Động từ “biết” được dùng để nói tránh cho hành vi quan hệ vợ chồng. Trong Cựu Ước động từ này thường xuyên được dùng theo nghĩa đó: “Ađam biết Evà, vợ mình, rồi bà thụ thai và sinh Cain, nói rằng: “Tôi có một người với sự trợ giúp của Chúa”; “Cain biết vợ mình, rồi bà thụ thai và sinh Ênốc” (St 4,1.7; Cf. St 19,8; Ds 31,17; Tl 11,39; 1 Sm 1,19; Gđt 16,22). Trong biến cố truyền tin, do tác giả Luca ghi lại, bà Maria cũng dùng động từ này: “Chuyện đó sẽ xảy ra cách nào được vì tôi không hề biết một người đàn ông” (Lc 1,34: πῶς ἔσται τοῦτο, ἐπεὶ ἄνδρα οὐ γινώσκω). Động từ “biết” được dùng ở thì vị hoàn (chưa hoàn thành) nhấn mạnh sắc thái kéo dài của hành động: “Luôn không biết bà”. Mệnh đề “cho đến khi bà sinh một con trai”, cùng với sự kiện “mẹ và anh em của Người đứng bên ngoài, tìm cách nói chuyện với Người” (Mt 12,46-47; Mc 3,31-32), làm cho nhiều tác giả Tin Lành lý giải rằng sau khi bà Maria sinh “một con trai”, thì hai ông bà sinh hoạt vợ chồng bình thường, và những người anh em ấy là anh em ruột của Người.[12] Tuy thế, tác giả chỉ có ý nhấn mạnh sự giáng sinh kỳ lạ và nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu, chứ không có ẩn ý về một đời sống bình thường giữa hai người sau khi bà Maria sinh Đức Giêsu. Ý định của tác giả nhằm tăng thêm và chốt lại bằng sự cộng tác của ông Giuse với những mầu nhiệm đã được tỏ lộ trước đó: “Thai nhi trong bụng bà là từ Thánh Linh” (Mt 1,20). Thánh Linh không ra lệnh là không được ăn ở với bà Maria, nhưng ông Giuse ý thức được đều ấy và tự lệnh cho mình không được can thiệp vào công trình của Thánh Linh.
Bình luận tổng quát
Trong số các tác giả Tin Mừng, chỉ có tác giả Mátthêu và Luca có trình thuật về Giáng Sinh và Thời Thơ ấu. Điểm gặp nhau giữa hai tác giả này là: Đức Giêsu giáng sinh bởi trinh nữ Maria, qua sự can thiệp của Thánh Linh (Mt 1,18-25; Lc 1,26-38); Nơi sinh của Người là Bếtlehem, quê hương của vua Đavid (Mt 2,1-12; Lc 2,1-7); Người lớn lên ở Nadarét (Mt 2,21-23; Lc 2,39-40). Nếu đọc song song, và đối chiếu các trình thuật của hai tác giả này, người ta có thể nhận thấy rằng, dường như họ đi theo hai hướng khác nhau, nhưng bổ sung cho nhau. Trong khi tác giả Luca nhấn mạnh về nhân vật bà Maria, mẹ ruột của Đức Giêsu, tác giả Mátthêu nhấn mạnh đến nhân vật Giuse, cha nuôi của Người. Nếu như trong Tin Mừng theo tác giả Luca, sứ giả của Chúa đến truyền tin cho bà Maria, thì trong Tin Mừng Mátthêu, sứ giả đến thưa chuyện cùng ông Giuse và trao ban sứ vụ cho ông. Dường như sau khi truyền tin cho bà Maria, sứ giả phải đến truyền tin cho ông Giuse để giải thích cho ông rõ và mời ông vào cuộc cùng với Bà Maria, vì lúc ấy ông đang toan tính rút lui cách âm thầm. Ông Giuse rút lui khỏi cuộc đời bà Maria bằng cách để cho bà ra đi trong âm thầm. Mục tiêu kép là ông vừa không muốn can dự vào cuộc đời bà Maria, với chiếc bào thai không rõ ràng, vừa không muốn tố giác vị hôn thê của mình. Lý do được đưa ra cho chọn lựa của ông xoay quanh đặc tính “công chính” của ông. Sự công chính của ông Giuse được hiểu theo cách hiểu của liên từ “kai” (và, nhưng). Nếu hiểu “kai” là “nhưng”, thì sự công chính của ông có thể được hiểu là công chính của người làm theo Luật dạy: “Ông Giuse, tuy là người công chính, nhưng ông không muốn tố giác bà, ông quyết định để bà ra đi cách kín đáo”. Vì thực thi Lề Luật, ông Giuse phải đưa vấn nạn của bà Maria ra ánh sáng, nhưng ông vượt trên sự công chính theo Lề Luật để thể hiện lòng nhân, lòng thương xót đối với vị hôn thê của mình, vì nếu ông làm theo Luật thì bà Maria có nguy cơ phải đối diện với bản án ném đá đến chết. Nếu hiểu chữ “kai” theo nghĩa là “và” (nên): “Ông Giuse, vì là người công chính, và (nên) không muốn tố giác bà, ông quyết định để bà ra đi cách âm thầm”. “Để bà ra đi” âm thầm là biểu hiện, minh chứng cho sự công chính của ông. Qua lời của sứ giả, dù chỉ là trong giấc mơ, ông Giuse hiểu ra rằng tất cả đều nằm trong kế hoạch của Chúa. Ông hiểu vị hôn thê của mình mang thai không liên quan gì đến kẻ thứ ba. Tác nhân “Thánh Linh” cho thấy tính thánh thiêng của thai nhi chưa chào đời. Danh xưng “Giêsu” diễn tả sứ mạng cứu độ, bằng cách cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ. Lời Chúa trong sách ngôn sứ liên quan đến một trinh nữ mang thai, sinh hạ một con trai càng khẳng định nền tảng mầu nhiệm mà bà Maria đang cộng tác. Đức Giêsu không chỉ là Đấng Mêsiah của lời hứa, Đấng Cứu Độ, mà còn là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Khi thực thi đúng như lời sứ giả nói, ông Giuse đã cho thấy sự quảng đại xin vâng như bà Maria, hôn thê của mình. Ông đã xoay chuyển 180 độ, từ ý định rút lui có trật tự, ông quay về cộng tác với sứ vụ, và dấn thân trọn vẹn cho sứ vụ ấy. Nơi ông Giuse, người ta có thể thấy được mức độ công chính tột đỉnh. Đó là sự cộng chính của người tin vào lời sứ giả của Chúa trong những giấc mơ, để rồi vâng phục, hy sinh, sẵn sàng cho sứ vụ cứu độ. Ông cũng là mẫu hình của người “lắng nghe và thực hành lời” Chúa cách tuyệt vời nhất. Sự đáp trả của ông Giuse, cùng với sự xin vâng của bà Maria đã đánh dấu sự trọn vẹn, hoàn hảo về sự cộng tác quảng đại của nhân loại vào công trình cứu độ tuyệt vời của Chúa.
Một vài kết luận thần học quan trọng trong Mt 1,18-25: (1) Đức Giêsu được thụ thai từ quyền năng Thiên Chúa, được bà Maria sinh ra. Người là Con Thiên Chúa, nhập thể làm người; (2) Người chính là Đấng Mêsiah trong truyền thống Do Thái, Đấng được hứa trước và muôn dân đang trông đợi; (3) Sứ vụ của Người ẩn chứa trong danh của Người, Giêsu: Đấng cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ; (4) Người cũng là Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Immanuel); (5) Ông Giuse là mẫu gương cho sự công chính vượt bậc qua lòng thương xót với người bạn đời và thực thi thánh ý Chúa; (6) Đức Giêsu là con vua Đavid theo dòng phụ hệ của ông Giuse, người đặt tên cho Đức Giêsu theo lời sứ giả.
Lm. Jos. Phạm Duy Thạch, SVD
Chú thích:
[1] “Two witnesses, mutual consent and groom’s declaration were necessary to establish Jewish betrothals” [C. S. Keener, The IVP Bible Background Commentary. New Testament (Downers Grove, Ill 1993) 47].
[2] “Though the Jews did distinguish engagement from marriage, the dissolution of an engagement was considered the equivalent of divorce, and an engaged woman whose husband-to-be had died was regarded as a widow’ [B.M. Newman & P.C. Stine, A handbook on the Gospel of Matthew (UBS; New York 1992) 20]; “In the Law (Deut 22:13 ff.) betrothal was a far more binding step than is our custom of engagement before marriage, and the penalty for fornication with one person while betrothed to another was death for both guilty parties” [W.F. Albright, & C.S. Mann, Matthew. Introduction, translation, and notes (New Haven – London 2008) 7].
[3] Tuy nhiên, cũng có lúc dân chúng thị trấn Nadarét đã gọi Đức Giêsu là “con của ông Giuse” (Người này không phải là con của ông Giuse sao? οὐχὶ υἱός ἐστιν Ἰωσὴφ οὗτος, Lc 4,22; tác giả Mátthêu nói là “con của bác thợ”, Mt 13,55; tác giả Máccô gọi Đức Giêsu là “bác thợ”, Mc 6,3). Có lẽ, trong những cách gọi của dân chúng Nadarét chỉ hàm chứa thói quen, chứ không nhấn mạnh đến vấn đề trinh thai và nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu.
[4] W. D. Davies – D.C. Jr. Allison, A critical and exegetical commentary on the Gospel according to Saint Matthew (ICC; New York 2004) I, 197.
[5] Xem thêm về “sự công chính của thánh Giuse” trong LỜI BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI ῥήματα ζωῆς αἰωνίου: SỰ CÔNG CHÍNH CỦA THÁNH GIUSE. Chú Giải Mt 1,19 (josephpham-horizon.blogspot.com)
[6] “while Joseph’s sense of obedience to the Law forced him in conscience to divorce Mary, his unwillingness to expose her to public disgrace led him to proceed without accusation of serious crime. He was upright but also merciful” [R.E. Brown, The Birth of the Messiah. A Commentary on the Infancy Narratives in the Gospels of Matthew and Luke (New York 1977) 127].
[7]“Joseph chose the more merciful course of action. Strictly speaking, the punishment for adultery was death by stoning, although the penalty in New Testament times may have been less severe” (B.M. Newman & P.C. Stine, A handbook on the Gospel of Matthew, 22).
[8] B.M. Newman & P.C. Stine, A handbook on the Gospel of Matthew, 22.
[9] B.M. Newman & P.C. Stine, A handbook on the Gospel of Matthew, 23.
[10] B.M. Newman & P.C. Stine, A handbook on the Gospel of Matthew, 24
[11] X. J.D.W. Watts, Isaiah 1-33, WBC 24 (Revised Edition); D.A. Hagner, Matthew 1–13, 20.
[12] “The verse is commonly cited by Protestants to indicate that Mary had other children, by Joseph. It has been common tradition in both Eastern and Western Christendom since at least the fourth century that Mary was virgin both before and after the birth of Jesus” (W.F. Albright, & C.S. Mann, Matthe, 9).