Lời Chúa + Bài giảng Lễ Vọng Phục Sinh – Năm A

0
862

(Ðề nghị đọc chín bài đọc, bảy bài Trích ở Cựu Ước và hai bài trích ở Tân Ước. Nếu hoàn cảnh không cho phép, và khi có lý do đặc biệt, có thể bớt số bài đọc. Nhưng phải đọc ít là ba bài trích ở Cựu Ước trước Thánh Thư và Tin Mừng; còn nếu gấp quá, thì đọc ít là hai bài đọc trước Thánh Thư và Tin Mừng. Nhưng không khi nào được bỏ bài trích sách Xuất Hành (Xh 14, 15 – 15, 1) nói về việc qua Biển Ðỏ.)

Bài Ðọc I: St 1, 1 – 2, 2 {hoặc 1, 1. 26-31a}

“Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm thật là tốt đẹp”.

Trích sách Sáng Thế.

Từ nguyên thuỷ Thiên Chúa đã tạo thành trời đất. Ðất còn hoang vu trống rỗng, tối tăm bao trùm vực thẳm, và thần trí Thiên Chúa bay sà trên mặt nước.

Thiên Chúa phán: “Hãy có ánh sáng”. Và có ánh sáng. Thiên Chúa thấy ánh sáng tốt đẹp, Người phân rẽ ánh sáng khỏi tối tăm. Thiên Chúa gọi ánh sáng là ngày, tối tăm là đêm. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ nhất.

Thiên Chúa phán: “Hãy có một vòm trời ở giữa nước, phân rẽ nước với nước”; và Thiên Chúa làm nên vòm trời, và phân rẽ nước phía dưới vòm trời với nước phía trên vòm trời. Và xảy ra như vậy. Thiên Chúa gọi vòm đó là trời. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ hai.

Thiên Chúa phán: “Nước dưới trời hãy tụ lại một nơi, để lộ ra chỗ khô cạn. Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa gọi chỗ khô cạn là đất, và Người gọi khối nước là biển. Thiên Chúa thấy tốt đẹp. Và Thiên Chúa phán: “Ðất hãy trổ sinh thảo mộc xanh tươi mang hạt giống; và cây ăn trái phát sinh trái theo giống nó, và trong trái có hạt giống, trên mặt đất. Và đã xảy ra như vậy. Tức thì đất sản xuất thảo mộc xanh tươi mang hạt theo giống nó, và cây phát sinh trái trong có hạt tuỳ theo loại nó. Và Thiên Chúa thấy nó tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ ba.

Thiên Chúa còn phán: “Hãy có những vật sáng trên vòm trời và hãy phân chia ngày và đêm, và trở thành dấu chỉ thời gian, ngày và năm tháng, để soi sáng trên vòm trời và giãi sáng mặt đất”. Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa đã làm nên hai vầng sáng lớn: Vầng sáng lớn hơn làm chủ ban ngày, và vầng sáng nhỏ hơn làm chủ ban đêm; Và Ngài cũng làm nên các tinh tú. Thiên Chúa đặt chúng trên vòm trời để soi sáng trên mặt đất, và làm chủ ngày đêm, và phân chia ánh sáng với tối tăm. Thiên Chúa thấy nó tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ tư.

Thiên Chúa lại phán: “Nước hãy sản xuất những sinh vật bò sát, và loài chim bay trên mặt đất, dưới vòm trời. Vậy Thiên Chúa tạo thành những cá lớn, mọi sinh vật sống động mà nước sản xuất theo loại chúng, và mọi chim bay tuỳ theo giống. Thiên Chúa thấy chúng tốt đẹp. Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng: “Hãy sinh sôi nẩy nở cho nhiều, đầy nước biển; loài chim hãy sinh cho nhiều trên mặt đất”. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ năm.

Thiên Chúa lại phán: “Ðất hãy sản xuất các sinh vật tuỳ theo giống: gia súc, loài bò sát và dã thú dưới đất tuỳ theo loại”. Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa đã dựng nên dã thú dưới đất tuỳ theo loại, gia súc, và mọi loài bò sát dưới đất tuỳ theo giống. Thiên Chúa thấy chúng tốt đẹp. Và Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm chủ cá biển, chim trời, dã thú khắp mặt đất và tất cả loài bò sát di chuyển trên mặt đất”.

Vậy Thiên Chúa đã tạo thành con người giống hình ảnh Chúa, Chúa tạo thành con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Người tạo thành họ có nam có nữ.

Thiên Chúa chúc phúc cho họ và phán rằng: “Hãy sinh sôi nẩy nở cho nhiều, đầy mặt đất, và thống trị nó; hãy bá chủ cá biển, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất”. Thiên Chúa phán: “Ðây Ta ban cho các ngươi làm thức ăn mọi thứ cây cỏ mang hạt giống trên mặt đất và toàn thể thảo mộc sinh trái có hạt tuỳ theo giống. Ta ban mọi thứ cây cỏ xanh tươi làm thức ăn cho mọi loài dã thú trên mặt đất, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất”. Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm rất tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ sáu.

Thế là trời đất và mọi trang điểm của chúng đã hoàn thành. Ngày thứ bảy Thiên Chúa đã hoàn tất công việc Người đã làm. Và sau khi hoàn tất công việc Người đã làm, thì ngày thứ bảy Người nghỉ ngơi.

Ðó là lời Chúa.

Hoặc bài vắn này: St 1, 1. 26-31a

Trích sách Sáng Thế.

Từ nguyên thuỷ Thiên Chúa đã tạo thành trời đất. Và Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm chủ cá biển, chim trời, dã thú khắp mặt đất và tất cả loài bò sát di chuyển trên mặt đất”.

Vậy Thiên Chúa đã tạo thành con người giống hình ảnh Chúa, Chúa tạo thành con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Người tạo thành họ có nam có nữ.

Thiên Chúa chúc phúc cho họ và phán rằng: “Hãy sinh sôi nẩy nở cho nhiều, đầy mặt đất, và thống trị nó; hãy bá chủ cá biển, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất”. Thiên Chúa phán: “Ðây Ta ban cho các ngươi làm thức ăn mọi thứ cây cỏ mang hạt giống trên mặt đất và toàn thể thảo mộc sinh trái có hạt tuỳ theo giống. Ta ban mọi thứ cây cỏ xanh tươi làm thức ăn cho mọi loài dã thú trên mặt đất, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất”. Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm rất tốt đẹp.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 32, 4-5. 6-7. 12-13. 20 và 22

Ðáp: Ðịa cầu đầy ân sủng Chúa (c. 5b).

Xướng: 1) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. – Ðáp.

2) Do lời Chúa mà trời xanh được tạo thành, và mọi cơ binh chúng đều do hơi thở miệng Người. Chúa thu nước biển lại như để trong bầu, Người đặt những ngọn sóng trong kho chứa đựng.- Ðáp.

3) Phúc thay quốc gia mà Chúa là chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. Tự trời cao Chúa nhìn xuống, Người xem thấy hết thảy con cái loài người. – Ðáp.

4) Linh hồn chúng tôi mong đợi Chúa, chính Người là Ðấng phù trợ và che chở chúng tôi. – Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài. – Ðáp.

Bài Ðọc II: St 22, 1-18 (Bài dài)

“Của lễ hiến tế của Abraham, Tổ phụ chúng ta”.

Trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, Chúa thử Abraham và nói với ông rằng: “Abraham, Abraham”. Ông đáp lại: “Dạ, con đây”. Chúa nói: “Ngươi hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi”. Sáng ngày, Abraham dậy sớm, thắng lừa và đem theo hai đứa đầy tớ của ông, cùng với Isaác con ông, ông chẻ củi dùng vào lễ thượng hiến, đoạn ông lên đường đến chỗ Thiên Chúa đã tỏ cho ông.

Ngày thứ ba, Abraham ngước mắt lên và thấy chỗ ấy từ đàng xa. Abraham mới bảo tôi tớ: “Các anh ở lại đây với con lừa; còn ta và đứa trẻ, chúng ta phải đi tới đằng kia mà thờ lạy, rồi chúng tôi sẽ về lại với các anh”. Abraham lấy củi lễ thượng hiến và cho Isaác vác đi, còn ông thì cầm lấy lửa và dao phay, rồi cả hai cùng bước. Isaác cất tiếng nói với Abraham cha cậu rằng: “Cha!” Ông đáp: “Ta đây, con!” Cậu hỏi: “Này đây đã có lửa và củi, vậy hy sinh thượng hiến ở đâu?” Abraham đáp: “Chính Thiên Chúa sẽ tự liệu ra hy sinh thượng hiến, con ạ”. Rồi cả hai cùng bước.

Khi hai người đến nơi Chúa đã chỉ, Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi trói Isaac lại, đặt lên bàn thờ trên đống củi. Abraham giơ tay lấy dao để sát tế con mình. Bấy giờ thiên thần Chúa từ trời gọi ông rằng: “Abraham! Abraham!” Ông thưa lại: “Dạ, con đây”. Người nói: “Ðừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây, Ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta”. Abraham ngước mắt lên, thấy sau lưng mình có con cừu đực đang mắc sừng trong bụi cây, Abraham liền bắt nó và tế lễ thay cho con mình. Chỗ ấy Abraham gọi tên là “Thiên Chúa sẽ liệu”, khiến ngày nay người ta còn nói: “Trên núi Thiên Chúa sẽ liệu”.

Thiên thần Chúa gọi Abraham lần thứ hai và nói rằng: “Chúa phán: Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi. Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta”.

Ðó là lời Chúa.

Hoặc đọc bài vắn này: St 22, 1-2. 9a. 10-13. 15-18

Trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, Chúa thử Abraham và nói với ông rằng: “Abraham, Abraham”. Ông đáp lại: “Dạ, con đây”. Chúa nói: “Ngươi hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi”.

Khi hai người đến nơi Chúa đã chỉ, Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi trói Isaac lại, đặt lên bàn thờ trên đống củi. Abraham giơ tay lấy dao để sát tế con mình. Bấy giờ thiên thần Chúa từ trời gọi ông rằng: “Abraham! Abraham!” Ông thưa lại: “Dạ, con đây”. Người nói: “Ðừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây, Ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta”. Abraham ngước mắt lên, thấy sau lưng mình có con cừu đực đang mắc sừng trong bụi cây, Abraham liền bắt nó và tế lễ thay cho con mình.

Thiên thần Chúa gọi Abraham lần thứ hai và nói rằng: “Chúa phán: Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi. Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta”.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 15, 5 và 8. 9-10. 11

Ðáp: Lạy Chúa, xin bảo toàn con, vì con tìm nương tựa Chúa (c. 1a).

Xướng: 1) Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng. – Ðáp.

2) Bởi thế, lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong âm phủ, cũng không để thánh nhân của Ngài thấy điều hư nát. – Ðáp.

3) Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời! – Ðáp.

Bài Ðọc III: Xh 14, 15 – 15, 1

“Con cái Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn”.

Trích sách Xuất Hành.

Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê rằng: “Có gì mà kêu đến Ta? Hãy bảo con cái Israel cứ lên đường. Còn ngươi, đưa gậy lên, và giơ tay trên biển, hãy phân rẽ biển ra, cho con cái Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn. Còn Ta, Ta sẽ làm cho lòng người Ai-cập ra chai đá, chúng sẽ rượt theo sau các ngươi. Bấy giờ Ta sẽ tỏ vinh quang cho Pharaon, toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy biết. Người Ai-cập sẽ biết Ta là Chúa khi Ta tỏ vinh quang cho Pharaon, chiến xa và kỵ binh của vua ấy biết”.

Sứ thần Thiên Chúa thường đi trước hàng ngũ Israel, liền bỏ trở lại sau họ. Cột mây thường đi phía trước, cũng theo sứ thần trở lại phía sau, đứng giữa hàng ngũ Ai-cập và hàng ngũ Israel. Và đám mây thường soi sáng ban đêm trở thành mù mịt, đến nỗi suốt đêm, hai bên không thể tới gần được. Môsê giơ tay trên biển, thì bằng một cơn gió đông thổi mạnh suốt đêm, Chúa dồn biển lui và làm cho biển khô cạn. Nước rẽ ra và con cái Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước dựng lên như bức thành hai bên tả hữu.

Người Ai-cập đuổi theo, toàn thể binh mã của Pharaon, chiến xa và kỵ binh đi theo sau Israel vào giữa lòng biển. Lúc gần sáng, qua cột mây lửa, Chúa nhìn xuống hàng ngũ Ai-cập, gây rối loạn trong hàng ngũ chúng. Người lật đổ bánh xe, khiến xe tiến tới thật vất vả. Người Ai-cập nói: “Ta hãy chạy trốn Israel, vì Chúa chiến đấu giúp họ, chống chúng ta”.

Chúa phán bảo Môsê: “Hãy giơ tay trên biển để nước trở lại vùi dập người Ai-cập, chiến xa và kỵ binh của chúng”. Môsê giơ tay trên biển, và lúc tảng sáng, biển trở lại như cũ. Người Ai-cập chạy trốn, gặp ngay nước biển ập lại. Chúa xô chúng ngã giữa lòng biển. Nước trở lại, vùi dập chiến xa và kỵ binh. Toàn thể quân lực của Pharaon đã theo dân Israel xuống biển, không còn tên nào sống sót. Còn con cái Israel đã đi giữa lòng biển khô cạn, nước dựng như bức thành hai bên tả hữu. Ngày đó Chúa cứu Israel khỏi tay Ai-cập. Và họ thấy xác người Ai-cập trôi dạt đầy bờ, và thấy cánh tay oai hùng của Thiên Chúa đè bẹp Ai-cập. Toàn dân kính sợ Chúa, tin vào Chúa và vào Môsê tôi tớ người.

Bấy giờ Môsê cùng với con cái Israel hát mừng Chúa bài ca này:

(Không đọc: Ðó là lời Chúa).

Ðáp Ca: Xh 15, 1-2. 3-4. 5-6. 17-18

Ðáp: Tôi sẽ ca tụng Chúa, vì Người uy linh cao cả (c. 1a).

Xướng: 1) Tôi sẽ ca tụng Chúa, vì Người uy linh cao cả. Người đã ném ngựa và người xuống biển khơi. Chúa là sức mạnh và là khúc ca của tôi, chính Người đã cho tôi được cứu thoát. Người là Thiên Chúa tôi, tôi sẽ tôn vinh Người; Người là Chúa tổ phụ tôi, tôi sẽ hát ca mừng Chúa. – Ðáp.

2) Chúa như là người chiến sĩ, danh thánh Người thật toàn năng. Người đã ném xe cộ và đạo binh của Pharaon xuống biển, và dìm xuống Biển Ðỏ các tướng lãnh của ông. – Ðáp.

3) Các vực thẳm đã chôn sống họ, họ rơi xuống đáy biển như tảng đá to. Lạy Chúa, tay hữu Chúa biểu dương sức mạnh; lạy Chúa, tay hữu Chúa đánh tan quân thù. – Ðáp.

4) Chúa đem con cái Israel trồng trên núi gia nghiệp Chúa, nơi vững chắc Chúa làm nơi cư ngụ, ôi lạy Chúa, là cung thánh tay Chúa đã lập nên; Chúa sẽ thống trị muôn đời muôn kiếp. – Ðáp.

Bài Ðọc IV: Is 54, 5-14

“Trong tình yêu vĩnh cửu, Chúa Cứu Chuộc đã xót thương ngươi”.

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðấng đã tạo thành ngươi thống trị ngươi, danh Người là Chúa các cơ binh, Ðấng Cứu Chuộc ngươi là Ðấng Thánh Israel, Người sẽ được tôn xưng là Thiên Chúa khắp địa cầu.

Thiên Chúa ngươi đã phán: “Chúa gọi ngươi như gọi người thiếu phụ bị bỏ rơi và sầu muộn, và như người vợ bị bỏ rơi lúc còn xuân xanh. Trong một thời gian ngắn, Ta đã bỏ ngươi, nhưng Ta sẽ lấy lượng từ bi cao cả mà tụ họp ngươi lại. Trong lúc nóng giận, Ta tạm ẩn mặt Ta, nhưng vì lòng nhân từ vô biên, Ta thương xót ngươi, Chúa là Ðấng cứu chuộc ngươi đã phán như vậy.

Cũng như trong thời Noe, Ta đã thề rằng nước lụt Noe sẽ không tràn ngập đất nữa, thì Ta cũng đã thề rằng Ta sẽ không giận ngươi, không quở trách ngươi nữa.

Dù núi có dời, đồi có di chuyển, tình yêu của Ta đối với ngươi không thay đổi, và giao ước bình an của Ta cũng sẽ không lay chuyển, Chúa nhân từ của ngươi đã phán như vậy.

Hỡi thành vô phúc, bị bão táp tàn phá và không ai an ủi, này đây Ta sẽ sắp xếp các viên đá của ngươi cho trật tự, sẽ đặt nền móng ngươi trên ngọc thạch, sẽ lấy đá hồng xây cửa đồn ngươi, sẽ lấy thuỷ tinh làm cửa thành ngươi, sẽ dùng đá quý xây tường thành ngươi.

Tất cả con cái ngươi sẽ được Chúa dạy bảo, chúng sẽ vui hưởng một nền hoà bình lâu dài. Ngươi sẽ đứng vững trong công lý, và xa mọi đàn áp, ngươi sẽ không còn sợ, và sống xa mọi khủng bố, vì sẽ không có ai hãm hại được ngươi nữa”.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 29, 2 và 4. 5-6. 11 và 12a và 13b

Ðáp: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con (c. 2a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân thù hoan hỉ về con. Lạy Chúa, Ngài đã đưa linh hồn con thoát xa Âm phủ, Ngài đã cứu con khỏi số người đang bước xuống mồ. – Ðáp.

2) Các tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Chúa, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài. Vì cơn giận của Ngài chỉ lâu trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài vẫn có suốt đời. Chiều hôm có gặp cảnh lệ rơi, nhưng sáng mai lại được mừng vui hoan hỉ.- Ðáp.

3) Lạy Chúa, xin nhậm lời và xót thương con. Lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu giúp con. Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho con; lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời. – Ðáp.

Bài Ðọc V: Is 55, 1-11

“Hãy đến cùng Ta và hồn các ngươi sẽ được sống.

Ta sẽ ký kết với các ngươi một giao ước vĩnh cửu”.

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðây Chúa phán: Hỡi tất cả những ai khát nước, hãy đến uống nước; hỡi kẻ không tiền bạc, hãy đến mua lúa mà ăn; hãy đến mà mua rượu và sữa, không cần trả tiền, không cần đổi chác gì. Tại sao các ngươi không dùng tiền mà mua bánh, sao không dùng tiền lương mà mua đồ nuôi thân? Vậy hãy lắng tai nghe, hãy đến ăn đồ bổ và các ngươi sẽ được thưởng thức món ăn mĩ vị.

Hãy lắng tai và đến cùng Ta, hãy nghe, thì các ngươi sẽ được sống; Ta sẽ ký kết với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, đó là những hồng ân đã hứa cho Ðavít: Ðây Ta đặt ngươi làm nhân chứng cho các dân, làm tướng lãnh tôn sư cho các dân tộc. Này ngươi sẽ kêu gọi dân mà trước ngươi không biết, và các dân trước chưa biết ngươi, sẽ chạy đến cùng ngươi, vì Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Ðấng Thánh Israel, bởi vì Chúa làm cho ngươi được hiển vinh.

Hãy tìm Chúa khi còn tìm được, hãy kêu cầu Người khi Người còn ở gần. Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình, và kẻ bất lương, hãy bỏ những tư tưởng mình, hãy trở về với Chúa, thì Người sẽ thương xót, hãy trở về với Thiên Chúa chúng ta, vì Chúa rộng lòng tha thứ. Vì tư tưởng Ta không phải tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải đường lối của Ta, Chúa phán như vậy. Như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối Ta vượt trên đường lối các ngươi, và tư tưởng Ta cũng vượt trên tư tưởng các ngươi thể ấy.

Như mưa tuyết từ trời rơi xuống và không trở lên trời nữa, nhưng chúng thấm xuống đất, làm cho đất phì nhiêu, cây cối sinh mầm, cho người gieo có hạt giống, cho người ta có cơm bánh ăn; cũng thế, lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta, và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Is 12, 2-3. 4bcd. 5-6

Ðáp: Các ngươi sẽ hân hoan múc nước nơi suối Ðấng Cứu Ðộ (c. 3).

Xướng: 1) Ðây Thiên Chúa là Ðấng Cứu Chuộc tôi, tôi sẽ tin tưởng mà hành động và không khiếp sợ: vì Chúa là sức mạnh, là Ðấng tôi ngợi khen, Người sẽ trở nên cho tôi phần rỗi. – Ðáp.

2) Hãy ca tụng Chúa và kêu cầu danh Người, hãy công bố cho các dân biết kỳ công của Chúa, hãy nhớ lại danh Chúa rất cao sang. – Ðáp.

3) Hãy ca tụng, vì Người làm nên những việc kỳ diệu, hãy cao rao việc đó trên khắp hoàn cầu. Hỡi người cư ngụ tại Sion, hãy nhảy mừng ca hát, vì Ðấng cao cả là Ðấng Thánh Israel ở giữa ngươi. – Ðáp.

Bài Ðọc VI: Br 3, 9-15. 32 – 4, 4

“Ngươi hãy đi trong đường ánh sáng của Chúa”.

Trích sách Tiên tri Barúc.

Hỡi Israel, hãy nghe các giới răn ban sự sống; hãy lắng tai nghe để hiểu biết sự khôn ngoan.

Hỡi Israel, bởi đâu ngươi ở trong đất nước quân thù, ngươi mòn mỏi trên đất khách, nhiễm lây nhơ bẩn của người chết, bị liệt vào kẻ phải xuống địa ngục? Ngươi đã lìa bỏ nguồn khôn ngoan. Vì chưng nếu ngươi theo đường lối Chúa, thì ngươi đã luôn sống trong bình an. Ngươi hãy học xem đâu là sự khôn ngoan, đâu là sức mạnh, đâu là sự thông hiểu, để ngươi cũng hiểu biết đâu là trường thọ và sự sống, đâu là ánh sáng con mắt và bình an. Ai là người sẽ tìm được nơi cư ngụ của sự khôn ngoan, ai đi vào trong kho tàng của nó? Chính Ðấng thấu suốt mọi sự, Người biết nó: Người thấu suốt nó do đức khôn ngoan của Người.

Người là Ðấng đã an bài vũ trụ đến muôn đời, và cho các gia súc và các thú bốn chân sống đầy mặt đất. Người sai ánh sáng đi thì nó đi, gọi nó lại thì nó run sợ vâng lời Người. Các ngôi sao ở vị trí mình mà chiếu sáng và đều vui mừng. Người gọi chúng thì chúng trả lời rằng: “Có mặt”. Chúng vui mừng chiếu sáng trước mặt Ðấng sáng tạo chúng.

Người là Thiên Chúa chúng ta, và không có chúa nào khác sánh được với Người. Người đã biết mọi đường lối khôn ngoan, đã ban nó cho Giacóp tôi tớ Người và cho Israel kẻ người yêu mến. Sau đó, Người xuất hiện trên mặt đất và sống giữa loài người.

Ðó là sách ghi các giới răn Chúa và lề luật tồn tại muôn đời, tất cả những ai tuân giữ lề luật thì được sống, còn ai bỏ thì phải chết. Hỡi Giacóp, hãy trở về và nắm giữ lề luật; hãy nhờ ánh sáng của Người mà tiến đến sự huy hoàng của Người. Ðừng trao vinh quang ngươi cho kẻ khác, cũng đừng trao đặc ân ngươi cho dân ngoại. Hỡi Israel, chúng ta có phúc, vì chúng ta đã được biết những gì là đẹp lòng Chúa.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 18, 8. 9. 10. 11

Ðáp: Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời (Ga 6, 69).

Xướng: 1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt. – Ðáp.

2) Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt. – Ðáp.

3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thực, công minh hết thảy. – Ðáp.

4) Những điều đó đáng chuộng hơn vàng, hơn cả vàng ròng, ngọt hơn mật và hơn cả mật chảy từ tàng ong. – Ðáp.

Bài Ðọc VII: Ed 36, 16-17a. 18-28

“Ta sẽ đổ trên các ngươi nước trong sạch và sẽ ban cho các ngươi quả tim mới”.

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Ðây lời Chúa phán cùng tôi rằng: “Hỡi con người, khi dân Israel cư ngụ trên đất mình, họ đã làm dơ bẩn đất ấy bằng đời sống và việc làm của họ. Và Ta đã nổi giận họ, vì họ đã đổ máu trên phần đất ấy, và vì các thần tượng họ thờ làm dơ bẩn phần đất ấy. Ta đã phân tán họ đi khắp các dân tộc, và cho họ sống rải rác trong các nước; Ta đã xét xử theo đời sống và việc làm của họ. Họ đã đi đến các dân tộc và ở đó họ xúc phạm thánh danh Ta, vì thiên hạ nói về họ rằng: “Này là dân của Chúa, họ bị đuổi ra khỏi đất của Người”. Và Ta đã thương hại thánh danh Ta mà nhà Israel đã xúc phạm nơi các dân tộc họ đến cư ngụ.

Vì thế, ngươi hãy nói với nhà Israel rằng: “Ðây Chúa là Thiên Chúa phán: Hỡi nhà Israel, không phải vì các ngươi mà Ta hành động, nhưng vì thánh danh Ta đã bị các ngươi xúc phạm nơi các dân tộc mà các ngươi đi đến cư ngụ. Ta sẽ thánh hoá danh cao cả Ta đã bị xúc phạm giữa các dân tộc, nơi mà các ngươi đã xúc phạm danh thánh Ta, để các dân tộc biết Ta là Chúa, Thiên Chúa các đạo binh phán, khi Ta tự thánh hoá nơi các ngươi trước mặt họ.

Ta sẽ kéo các ngươi ra khỏi các dân tộc, sẽ quy tụ các ngươi từ các nước, và dẫn dắt các ngươi trên đất các ngươi. Ta sẽ dùng nước trong sạch mà rảy trên các ngươi, và các ngươi sẽ được rửa sạch mọi vết nhơ. Ta sẽ thanh tẩy các ngươi sạch mọi vết nhơ các bụt thần.

Ta sẽ ban cho các ngươi quả tim mới, đặt giữa các ngươi một thần trí mới, cất khỏi xác các ngươi quả tim bằng đá và ban cho các ngươi quả tim bằng thịt. Ta đặt thần trí Ta giữa các ngươi, làm cho các ngươi thực thi các huấn lệnh Ta, làm cho các ngươi tuân giữ và thực hành các lề luật Ta. Các ngươi sẽ cư ngụ trong xứ Ta đã ban cho tổ phụ các ngươi; các ngươi sẽ là dân Ta, còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi”.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 41, 3. 5bcd; Tv 42, 3. 4

Ðáp: Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, Chúa Trời ôi! (c. 41, 2)

Xướng: 1) Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống: ngày nào con được tìm về ra mắt Chúa Trời? – Ðáp.

2) Tôi nhớ lúc xưa đi giữa muôn người, tôi đứng đầu đưa dân tiến vào nhà Ðức Chúa Trời, giữa muôn tiếng reo mừng, ca ngợi.- Ðáp.

3) Xin chiếu giãi quang minh và chân thực của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài. – Ðáp.

4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ mừng vui. Với cây cầm thụ, con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa của con. – Ðáp.

Hoặc (khi có Rửa tội): Tv 50, 12-13. 14-15. 18-19

Ðáp: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch (c. 12a).

Xướng: 1) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. – Ðáp.

2) Xin Chúa lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với Ngài. – Ðáp.

3) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu, Chúa sẽ không ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát; lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát, khiêm cung. – Ðáp.

Bài Ðọc Thánh Thư: Rm 6, 3-11

“Chúa Kitô, một khi tự trong cõi chết sống lại, Người không chết nữa”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, tất cả chúng ta đã chịu phép rửa trong Ðức Giêsu Kitô, tức là đã chịu phép rửa trong sự chết của Người. Và chúng ta đã cùng chịu mai táng với Người, bởi được thanh tẩy trong sự chết của người, để như Ðức Kitô nhờ vinh hiển của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, thì cả chúng ta cũng phải sống đời sống mới như thế.

Vì nếu chúng ta được liên kết với Người trong cùng một cái chết, giống như cái chết của Người, thì chúng ta cũng được hợp nhất với Người, trong sự sống lại giống như vậy. Nên biết điều này: con người cũ của chúng ta đã cùng chịu đóng đinh khổ giá, để xác thịt tội lỗi bị huỷ đi, hầu cho chúng ta không còn làm nô lệ tội lỗi nữa, vì con người đã chết, tức là được giải thoát khỏi tội lỗi.

Mà nếu chúng ta đã chết với Ðức Kitô, chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, vì biết rằng Ðức Kitô, một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa. Người đã chết, tức là chết một lần dứt khoát đối với tội lỗi, mà khi Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Cả anh em cũng thế, anh em hãy tự kể như mình đã chết đối với tội lỗi, nhưng sống cho Thiên Chúa, trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 117, 1-2. 16ab-17. 22-23

Ðáp: Alleluia, alleluia, alleluia.

Xướng: 1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: “Ðức từ bi của Người muôn thuở”. – Ðáp.

2) Tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt, tay hữu Chúa đã cất nhắc tôi lên. Tôi không chết, nhưng tôi sẽ sống, và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa. – Ðáp.

3) Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. – Ðáp.

Phúc Âm Năm A: Mt 28, 1-10

“Ngài đã sống lại và sẽ đến xứ Galilêa”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Qua chiều ngày Sabbat, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa tảng sáng, Maria Mađalêna và bà Maria khác đến thăm mồ. Bỗng chốc đất chuyển mạnh vì Thiên Thần Chúa từ trời xuống và đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên đó. Mặt Người sáng như chớp và áo Người trắng như tuyết. Vì thế những lính canh khiếp đảm run sợ và hầu như chết. Nhưng Thiên Thần lên tiếng và bảo các người nữ rằng: “Các bà đừng sợ. Ta biết các bà tìm Chúa Giêsu, Người đã chịu đóng đinh. Người không có ở đây vì Người đã sống lại như lời Người đã nói. Các bà hãy đến mà coi nơi đã đặt Người và đi ngay bảo các môn đệ Người rằng: Người đã sống lại, và kìa Người đến xứ Galilêa trước các ông: Ở đó các ông sẽ gặp Người. Ðây Ta đã báo trước cho các bà hay”.

Hai bà vội ra khỏi mồ, vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Người. Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: “Chào các bà”. Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo: “Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó, họ sẽ gặp Ta”.

Ðó là lời Chúa.


 

Bài giảng chủ đề:

NGÔI MỘ TRỐNG (Lm. Giuse Trần Minh Hùng, SVD)

Hằng năm chúng ta cử hành long trọng Lễ Vượt Qua của Giao Uớc mới, chúng ta nghe Lời Chúa thuật lại những kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện với quyền năng và tình thương của Người trong lịch sử cứu độ. Giữa muôn vàn kỳ công đó, Phục Sinh được xem là biến cố trọng tâm của lịch sử cứu độ. Đây chính là biến cố vĩ đại tạo nên ý nghĩa cho các biến cố khác. Sấm ngôn tiên tri, lề luật Môi-sen, Thánh Vịnh, đến cả giáo huấn của Chúa Giê-su đều chỉ có thể hiểu được nhờ ánh sáng của Phục Sinh. Tất cả đều qui về sự hoàn thành ấy. Nhận thức về ý nghĩa quan trọng của biến cố này, thánh Phao-lô nói: “Nếu Đức Ki-tô không phục sinh, thì niềm tin và lời rao giảng của chúng ta ra vô ích” (1 Cr 15,14). Trong đêm Vọng Phục Sinh, câu chuyện “Ngôi Mộ Trống” do thánh sử Mát-thêu thuật lại, sẽ giúp chúng ta xác tín hơn về sự Phục Sinh của Đức Giê-su.

Giống như các tác giả Tin Mừng khác, thánh sử Mát-thêu bắt đầu câu chuyện với việc bà Ma-ri-a Mác-đa-la và những người phụ nữ khác đi viếng mộ, nơi táng xác Chúa Giê-su, vào buổi sáng ngày thứ nhất trong tuần. Nhưng sau đó trình thuật của Mát-thêu được khai triển trong cùng một khung cảnh lạ lùng như trong trình thuật mô tả trước đó về những hậu quả đi kèm sau cái chết của Chúa Giê-su: Đất rung chuyển. Mồ mả bật tung… (x. Mt 27,51-54). Khi đất rung chuyển, “thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên” (Mt 28,2). Tảng đá lớn bị niêm phong bởi sự ác và cái chết đã được lăn sang bên. Cùng với ngôi mộ của Chúa Giê-su bị mở ra, tất cả các ngôi mộ khác đều mở ra, những người chết được giải thoát (x. Mt 27,52).

Thiên thần Chúa ngồi trên tảng đá của ngôi mộ (x. Mt 28,2). Hình ảnh này biểu hiện về chiến thắng của Thiên Chúa trên quyền lực của thế gian này. Đức Giê-su Phục Sinh đã chiến thắng sự dữ và cái chết. Từ nay, “cái chết chẳng còn có quyền chi đối với Người” (Rm 6,9). Thánh sử Mát-thêu còn cho biết thêm, diện mạo của thiên thần “như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết” (Mt 28,3). Những chi tiết này là dấu chỉ khẳng định có sự can thiệp của chính Thiên Chúa. Mát-thêu muốn nêu bật việc nhận biết Chúa Giê-su Phục Sinh không thể là đối tượng của kinh nghiệm con người, mà đó là kết quả của một cuộc mạc khải của Thiên Chúa.

Thật vậy, chính thiên thần Chúa đã mạc khải cho những người phụ nữ đi viếng mộ biết sứ điệp Phục Sinh của Đức Giê-su khi nói: “Tôi biết các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã sống lại” (Mt 28,5-6). Và rồi thiên thần mời họ “đến mà xem” (Mt 28,6) để xác nhận: ngôi mộ trống không, tuy xác Chúa Giê-su đã được đặt nơi đó. Điều này cho thấy, phần đầu của sứ điệp đã được chứng thực: “Ngài không còn ở đây nữa”. Còn phần sau: “Ngài đã sống lại”, dẫn đưa họ đến một sự khám phá bất ngờ. Câu nói “Người đã sống lại” đó là một sứ điệp mà Thiên Chúa mạc khải cho con người. Duy chỉ có thiên thần Chúa, với quyền năng của người loan tin từ trời, mới có thể nói rằng: “Chúa Giê-su đã phục sinh”; tương tự như khi Truyền Tin, sứ thần Chúa đã nói với Mẹ Ma-ri-a: “Bà sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai… và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao” (Lc 1,31). Riêng con người chỉ ghi nhận sự kiện Phục Sinh này bằng giác quan: Ngôi mộ trống. Trước khung cảnh ngôi mộ trống và sự xuất hiện của thiên thần Chúa, con người có thái độ phản ứng ra sao? Thánh sử Mát-thêu trình bày cho ta thấy có hai phản ứng khác nhau:

(1) Những người lính canh khiếp sợ, run rẩy và chết ngất (x. Mt 28,4). Họ không thể đối diện với sức mạnh và quyền năng của Thiên Chúa. Họ bị sốc trước ngôi mộ trống và trước những lời nói của thiên thần Chúa về Đấng đã chết nay đã sống lại. Họ đã vội vã chạy đi báo tin cho những người ra lệnh canh giữ biết về sự thật này. Tuy nhiên, họ đã bị ‘mua chuộc’ bởi tiền bạc và đã ‘bán đứng’ sự thật khi phao tin rằng: “ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ đã đến lấy trộm xác” (Mt 28,13).

(2) Riêng phản ứng của những phụ nữ lại khác: Sau những hoảng sợ ban đầu, họ đã tìm thấy được niềm vui và bình an nội tâm. Họ không còn sợ hãi bởi vì họ được thiên thần Chúa mời gọi một cách rõ ràng rằng: “Này các bà, các bà đừng sợ” (Mt 28,5) và đừng tìm Chúa Giê-su trong mộ. Các bà hãy đi loan báo tin vui Phục Sinh này cho các môn đệ (x. Mt 28,7-8). Tưởng chừng như ngôi mộ là nơi kết thúc con đường hy vọng của họ, nhưng thiên thần Chúa đã mở ra cho các bà một con đường khác: họ chạy về báo tin Chúa đã sống lại và cuộc chạy của Tin Mừng nầy sẽ không bao giờ chấm dứt.

Đức Ki-tô đã từ cõi chết sống lại. Người mang lại nguồn hy vọng và sự sống mới cho chúng ta. Như lời xác quyết của thánh Phao-lô: “Ai sẽ giải thoát tôi khỏi cái thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” (Rm 7,24-25). Nhờ sự sống lại của Đức Ki-tô Phục Sinh, chúng ta thêm can đảm và vượt qua những sợ hãi của bóng tối sự chết và đêm đen của sự dữ trên trái đất này. Bởi sứ điệp Phục Sinh nói cho chúng ta biết rằng: sức mạnh tình yêu của Đức Ki-tô đã chiến thắng mọi sự dữ (x. Rm 6,8-9). Trong đêm hồng phúc này, chúng ta nguyện xin tình yêu và bình an của Đức Ki-tô Phục Sinh ngự trị trong tâm hồn chúng ta, giúp ta chiến thắng những sợ hãi và bước đi trong niềm vui với Đấng đã chết và sống lại vì yêu thương chúng ta (x. Ga 15,13). Amen.


 

NIỀM TIN VÀ HY VỌNG (Lm. Giuse Lâm Văn Việt, SVD)

Thực tại cuộc sống mà con người mỗi ngày phải đối diện, đó là cái chết. Rõ ràng chẳng ai mong đón nhận cái chết cả vì thường tình người ta vẫn cho rằng chết là hết. Con người hoàn toàn vô vọng trước cái chết. Đứng trước cái chết con người như buông xuôi tất cả.

Những người Do Thái thời Chúa Giêsu, những người thân tín với Chúa Giêsu và đặc biệt là các môn đệ của Chúa Giêsu – những người cùng ăn, cùng uống, cùng đi rao giảng với Chúa Giêsu – đã chứng kiến, đã phải đối diện với cái chết của Chúa Giêsu. Lẽ dĩ nhiên là họ cũng vô vọng trước cái chết của Thầy mình. Thế nhưng, sự thật lại khác với những gì người ta suy nghĩ, hay tiên đoán. Chúa Giêsu đã phục sinh.

Chúa đã phục sinh. Đó là nền tảng của niềm tin và niềm hy vọng của mỗi người Kitô hữu chúng ta. Thánh Phaolô đã nói rất chí lý rằng: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1 Cr 15,17-19). Vì thế, ngài khẳng định rằng: “Nhưng không phải thế! Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cr 15,20).

Hôm nay, Giáo Hội cử hành mầu nhiệm Phục Sinh nhằm hiện tại hóa biến cố Chúa sống lại cho mỗi người chúng ta. Chúng ta đã trải qua 40 ngày của Mùa Chay là thời gian chuẩn bị cho sự Phục Sinh bằng ăn năn sám hối, hãm mình đền tội, thực thi bác ái. Giờ đây chúng ta mừng lễ Phục Sinh. Chúng ta vui mừng vì Chúa Kitô sống lại từ cõi chết, chúng ta cũng hân hoan vì đã hứa cho chúng ta được sống lại với Người.

Tin Mừng Mátthêu hôm nay cho chúng ta biết: Chúa đã sống lại thật, bằng chứng là ngôi mộ trống, bằng chứng là có Thiên Thần báo tin, bằng chứng là Chúa đã hiện ra với bà Maria Mácđala và một bà khác cũng tên là Maria, khi họ đi viếng mộ (Mt 28,1).

Trước ngôi mộ trống, xác Chúa không còn nữa; trước sự lạ lùng của mầu nhiệm Phục Sinh, các bà cũng hoảng sợ và có ý nghĩ muốn trốn đi. Nhưng khi thức tỉnh, với niềm tin xác tín, các bà đã đi báo tin vui cho các môn đệ. Tâm thức của các bà giờ đây chỉ còn là một Đức Giêsu “Đấng đã phục sinh”.Người chịu đóng đinh, chết và chôn trong mồ, nhưng nay đã sống lại. Người hiện ra, gặp gỡ, tiếp xúc trước hết với mấy phụ nữ, rồi các Tông Đồ, các môn đệ, và tất cả chúng ta ngày hôm nay.

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội một lần nữa muốn mỗi người chúng ta ý thức và xác tín vào việc Chúa Phục Sinh để cùng nhau tin tưởng, vui mừng và hy vọng vào sự phục sinh của mỗi người chúng ta trong ngày sau hết.

Chúng ta tin vì lời Chúa đã báo trước, và hôm nay điều đó đã trở thành hiện thực.Hôm nay một ánh sáng mới, một sinh khí mới, một mầm sống mới đã đến với mỗi người chúng ta, như dòng nước trường sinh tươi mát làm dịu bớt những nỗi đau, những hụt hẫng của cuộc đời. Chúng ta vui mừng vì sức mạnh của ánh sáng vinh quang Phục Sinh đã chiếu sáng cho những người đau khổ nghèo hèn, những người bị tù đày, những người đang sống trong bóng tối thất vọng; tất cả từ nay được sống trong vui tươi hạnh phúc. Chúng ta hy vọng vì cuộc đời mỗi người từ nay có Chúa Phục Sinh cùng đồng hành và Thần Khí Chúa giúp ta sống trong bình an, hạnh phúc.

Nhìn vào cuộc đời của mỗi người chúng ta: ngày qua ngày vẫn còn đó những nỗi buồn, vẫn còn đó những khổ ải, vẫn còn đó những thất vọng. Nhiều khi chúng ta nếm cảm những thất bại đau đớn, chúng ta muốn buông xuôi, y như ngôi mộ đã được một tảng đá niêm phong lại, chẳng còn gì để hy vọng, ngoài một niềm nuối tiếc khôn nguôi. Nhưng “tảng đá đã lăn ra khỏi mộ”! Chính Thiên Chúa đã lăn tảng đá ra khỏi mộ Đức Giêsu, thì Ngài cũng lăn được những tảng đá đang chắn cuộc đời chúng ta lại, miễn là chúng ta đừng nhất định bám cứng vào những tảng đá đó. Như một bài giảng được gán cho thánh Gioan Kim Khẩu (334-407), có đoạn viết: “Xin đừng có một ai buồn sầu về sự nghèo khó của mình, bởi vì Vương Quốc đã hiện ra cho tất cả mọi người; xin đừng có một ai than thở về các lỗi lầm của mình, bởi vì ơn tha thứ đã trào vọt ra từ ngôi mộ; xin đừng có một ai sợ hãi cái chết, bởi vì cái chết của Đấng Cứu thế đã giải thoát chúng ta. Người đã tiêu diệt cái chết, Đấng mà cái chết đã bóp nghẹt, Người đã tước đoạt hỏa ngục, Đấng đã xuống âm phủ…”

Vậy, niềm tin vào Chúa Phục Sinh sẽ giúp gì cho chúng ta?

Niềm tin phục sinh giúp chúng ta vượt qua được thử thách, đau khổ, nếu chúng ta biết nhìn lên Thánh Giá mà nhớ lại rằng chính Đức Giêsu Kitô cũng đã trải qua đau khổ, thất bại, đòn vọt, chịu đội mão gai và chết nhục nhã trên Thánh Giá mới bước vào vinh quang Phục Sinh. Những lúc đó, ánh sáng Phục Sinh sẽ len lỏi vào cõi lòng của chúng ta. Niềm hy vọng Phục sinh sẽ vụt lên trong tâm hồn của chúng ta, giúp chúng ta vượt qua được những thử thách, đau khổ trong cuộc sống.

Niềm tin phục sinh giải thoát chúng ta khỏi tội: như Thánh Phaolô mời gọi chúng ta: “Anh em hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl 3,1). Tìm kiếm những gì thuộc thượng giới là gì nếu không phải là tâm trí luôn hướng về niềm hạnh phúc Thiên Đàng. Khi chúng ta nghĩ tới hạnh phúc Thiên Đàng, nghĩ tới sự sống lại, chắc chắn chúng ta sẽ chống trả được những cơn cám dỗ, tránh xa được những thói hư tật xấu, đam mê tội lỗi. Nếu có sa ngã phạm tội thì nhờ hướng tới hạnh phúc Thiên Đàng mà chúng ta quyết tâm thống hối ăn năn những tội lỗi của mình để làm hoà cùngThiên Chúa.

Niềm tin phục sinh giúp chúng ta biết sống tha thứ, yêu thương mọi người hơn: Khi chúng ta bị bỏ vạ cáo gian, bị đánh đập, bị ghét bỏ, bị lên án, bị đối xử tệ bạc bất công, chúng ta không phàn nàn kêu trách, không trả thù, trái lại yêu thương, cầu nguyện, lấy ơn đền oán là chúng ta đang hướng tới sự Phục Sinh của Chúa.

Như vậy, niềm tin và niềm hy vào sự Phục Sinh rất quan trọng và cần thiết đối với mỗi người chúng ta. Tin vào sự Phục Sinh sẽ giúp chúng ta vượt qua được mọi đau khổ, chống trả được các chước cám dỗ, giải thoát khỏi tội lỗi vàdễ dàng chấp nhận những thiệt thòi mà người khác gây nên cho mình. Tin vào sự Phục Sinh giúp chúng ta cố gắng sống tốt hơn, tha thứ và yêu thương mọi người hơn.

Xin Chúa Phục Sinh luôn đồng hành, hiện diện trong cuộc đời mỗi người để chớ gì cuộc đời mỗi người chúng ta được liên kết nên một, gắn vào thân thể phục sinh nhiệm mầu của Chúa, để những nỗi buồn trở thành niềm vui, những khổ ải, thất vọng trở thành niềm hy vọng. Và với niềm tin, sự xác tín vào Chúa Phục Sinh,từ nay mỗi người chúng ta sẽ trở nên những con người mới, như lời khuyên của thánh Phaolô Tông Đồ (x. Ep 4,22-24).

Ước gì niềm vui, niềm hy vọng và niềm tin vào Chúa Phục Sinh của mỗi người chúng ta được thể hiện bằng hành động qua từng ngày sống. Xin cho mỗi người chúng taluôn xác tín rằng mỗi lần chúng ta trở về sau những lầm lỗi, là chúng ta đang phục sinh với Chúa. Mỗi lần chúng ta tin tưởng sau những lần phản bội niềm tin, là chúng ta đang sống lại với Người. Mỗi lần chúng ta tiếp tục cố gắng sau những lần thất bại đắng cay, là chúng ta đang ra khỏi mồ trống. Xin Chúa giúp chúng ta biết mở rộng tâm hồn để đón nhận ân sủng Phục Sinh của Chúa.[1]

Chú thích:

[1]http://www.dmhcg.org/CustomLinkModule/LinkContent.aspx?ItemID=5456&mid=88&pageid=0 – Truycậpngày 25/10/2016.

 

Bài trướcNGÀY SỨC KHỎE THẾ GIỚI 07/04/2023
Bài tiếp theoChú Giải Tin Mừng Canh Thức Vượt Qua, Năm A (Mt 28,1-10)

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

The reCAPTCHA verification period has expired. Please reload the page.