Chú giải Tin Mừng Chúa Nhật XXIV Thường Niên, Năm C (Lc 15,1-32)

0
350

HOÁN CẢI VÀ CHUNG VUI [1]

Lm. Giuse Phạm Duy Thạch, SVD chú giải

Bản văn và dịch sát nghĩa (Lc 15,1-32)

Hy Lạp Việt
1 Ἦσαν δὲ αὐτῷ ἐγγίζοντες πάντες οἱ τελῶναι καὶ οἱ ἁμαρτωλοὶ ἀκούειν αὐτοῦ.

2  καὶ διεγόγγυζον οἵ τε Φαρισαῖοι καὶ οἱ γραμματεῖς λέγοντες ὅτι οὗτος ἁμαρτωλοὺς προσδέχεται καὶ συνεσθίει αὐτοῖς.

3  Εἶπεν δὲ πρὸς αὐτοὺς τὴν παραβολὴν ταύτην λέγων·

4  τίς ἄνθρωπος ἐξ ὑμῶν ἔχων ἑκατὸν πρόβατα καὶ ἀπολέσας ἐξ αὐτῶν ἓν οὐ καταλείπει τὰ ἐνενήκοντα ἐννέα ἐν τῇ ἐρήμῳ καὶ πορεύεται ἐπὶ τὸ ἀπολωλὸς ἕως εὕρῃ αὐτό;

5  καὶ εὑρὼν ἐπιτίθησιν ἐπὶ τοὺς ὤμους αὐτοῦ χαίρων

6  καὶ ἐλθὼν εἰς τὸν οἶκον συγκαλεῖ τοὺς φίλους καὶ τοὺς γείτονας λέγων αὐτοῖς· συγχάρητέ μοι, ὅτι εὗρον τὸ πρόβατόν μου τὸ ἀπολωλός.

7  λέγω ὑμῖν ὅτι οὕτως χαρὰ ἐν τῷ οὐρανῷ ἔσται ἐπὶ ἑνὶ ἁμαρτωλῷ μετανοοῦντι ἢ ἐπὶ ἐνενήκοντα ἐννέα δικαίοις οἵτινες οὐ χρείαν ἔχουσιν μετανοίας.

8  Ἢ τίς γυνὴ δραχμὰς ἔχουσα δέκα ἐὰν ἀπολέσῃ δραχμὴν μίαν, οὐχὶ ἅπτει λύχνον καὶ σαροῖ τὴν οἰκίαν καὶ ζητεῖ ἐπιμελῶς ἕως οὗ εὕρῃ;

9  καὶ εὑροῦσα συγκαλεῖ τὰς φίλας καὶ γείτονας λέγουσα· συγχάρητέ μοι, ὅτι εὗρον τὴν δραχμὴν ἣν ἀπώλεσα.

10  οὕτως, λέγω ὑμῖν, γίνεται χαρὰ ἐνώπιον τῶν ἀγγέλων τοῦ θεοῦ ἐπὶ ἑνὶ ἁμαρτωλῷ μετανοοῦντι. (Lk. 15:1-10 BGT)

1 Bởi vì tất cả những người thu thuế, cùng những kẻ tội lỗi thường đến với Đức Giêsu để nghe Người,

2 và những người Pharisêu và các Kinh Sư cứ kêu trách, nói rằng: “Ông ấy tiếp đón những người tội lỗi và cùng ăn với chúng”.

3 Người mới nói cùng họ dụ ngôn này, rằng:

4. “Người nào trong các ông có một trăm con chiên và một trong chúng bị lạc, lại không để chín mươi chín con lại trong sa mạc và ra đi vì con chiên lạc ấy cho đến khi tìm được nó.

5 Và khi tìm được rồi, ông vui mừng đặt nó lên đôi vai của mình.

6 Khi về đến nhà, ông gọi các bạn hữu và những người hàng xóm, nói cùng họ rằng: ‘Hãy chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên lạc’

7 Tôi bảo các ông trên trời cũng sẽ có niềm vui như thế, vì một người tội lỗi hoán cải, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần có sự hoán cải.

8 Hay người phụ nữ nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kiếm cách cẩn thận cho đến khi tìm được?

9 Khi tìm được rồi, bà gọi những người bạn và những người hàng xóm, nói rằng: ‘Hãy chung vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy đồng bạc mà tôi đã đánh mất’”.

10 Như thế, tôi bảo các ông, sẽ có niềm vui trước mặt các thiên sứ của Thiên Chúa vì một người tội lỗi hoán cải.

 

Bối cảnh

Tình huống những người Pharisêu và Kinh Sư, lẩm bẩm kêu ca về việc những người thu thuế và những người tội lỗi, nhắc nhớ đến sự kiện Đức Giêsu đến dùng bữa tại nhà nhân viên thu thuế Lêvi, có nhiều người thu thuế và người tội lỗi cùng ăn với Người (Mc 2,15; Lc 5,29). Những người Pharisêu và các Kinh Sư cũng đặt vấn đề tại sao họ lại ăn uống với những loại người này (Mc 2,16; Lc 5,30). Câu chuyện Đức Giêsu cho một người phụ nữ tội lỗi đụng chạm và xức dầu tại nhà một người Pharisêu (Lc 7,36-50), cũng để lại nhiều nghi vấn trong lòng người Pharisêu. Câu chuyện Đức Giêsu thăm nhà ông Dakêu (Lc 19,1-10), một thủ lãnh của những người thu thuế, cũng để lại nhiều tiếng xầm xì trong lòng dân chúng (Lc 19,7). Chủ đề “mất” và “tìm” liên kết chặt chẽ đến lời khẳng định của Đức Giêsu trong câu chuyện về Dakêu: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10; Cf. Mc 2,17; Mt 9,13; Lc 5,32).

Cấu trúc

Ngoài phần dẫn nhập (Lc 15,1-3) giới thiệu về các nhân vật cũng như hoàn cảnh để Đức Giêsu kể dụ ngôn, Lc 15,4-10 gồm có hai dụ ngôn có cấu trúc rất giống nhau, và cùng được kết thúc với một kết luận của Đức Giêsu.

Bối cảnh: Nhân vật và nhân dịp (1-3)

 Dụ ngôn I (4-7): Người đàn ông và con chiên lạc

Có một trăm con chiên

mất một con

để chín mươi chín con lại và đi tìm

tìm được

ăn mừng với bạn bè và những người thân cận

Kết luận: Vui mừng trên trời, một người tội lỗi hoán cải

 

Dụ ngôn II (8-9): Người phụ nữ và đồng bạc bị mất

Có mười đồng bạc

mất một đồng

đốt đèn và quét nhà để tìm kiếm cẩn thận

tìm được

ăn mừng

Kết Luận: Niềm vui trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa, một người tội lỗi hoán cải

 

Một số điểm chú giải

  1. Người thu thuế và người tội lỗi: Cặp nhân vật “những người thu thuế” và “những người tội lỗi” thường đi chung với nhau. “Những người thu thuế” được định nghĩa bằng nghề nghiệp của họ, trong khi “những người tội lỗi” được định nghĩa bằng nhân cách đạo đức của họ. Thỉnh thoảng “những người thu thuế” đi chung với “những cô gái điếm” (cũng là những người tội lỗi) (Mt 21,31.32). Người thu thuế cũng được đồng hóa với người tội lỗi (x. Lc 19,7). Điều mà cặp nhân vật này có chung là họ đều bị những người Do Thái đương thời khinh bỉ, ghét bỏ.[2] Những người thu thuế bị ghét bỏ, vì họ là những người làm việc cho đế quốc. Nhất là, họ thường tham lam “thu hơn những gì đã được ấn định” (Lc 3,13) và gây đau khổ cho những người đồng hương. Những người tội lỗi bị khinh dể, vì họ xa rời Thiên Chúa, tách ra khỏi Thiên Chúa là Đấng Thánh Thiện. May mắn thay, cặp nhân vật này là những đối tượng mà Đức Giêsu muốn kêu gọi: “Ta không đến để kêu gọi người công chính mà là những người tội lỗi” (Mc 2,17; Mt 9,13; Lc 5,32). Bằng chứng là họ thường được Đức Giêsu đồng hành, dạy dỗ, ăn uống với (Mc 2,15; Lc 5,30; 7,34; 15,1). Khác với các tác giả khác, tác giả Luca gắn liền câu chuyện “xức dầu Đức Giêsu” với một người phụ nữ tội lỗi vô danh trong thành (Lc 7,36-50). Chuyện xảy ra khi Đức Giêsu đang dùng bữa tại nhà một người Pharisêu tên là Simôn. Một người phụ nữ tội lỗi đã đi vào và đã “đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên”. Ông Simôn đã nghi vấn về tư cách ngôn sứ của Đức Giêsu, khi Người để cho người phụ nữ tội lỗi làm như thế. Câu chuyện kết thúc với lời tuyên bố tha tội và ơn cứu độ dành cho người phụ nữ ấy. Luca cũng là tác giả duy nhất ghi lại câu chuyện hoán cải của người trộm lành trên thánh giá (Lc 23,39-43). Tác giả Luca ghi lại nhiều chi tiết tích cực về những người thu thuế: (1) Những người thu thuế đến xin chịu Phép Rửa của ông Gioan Tẩy Giả và hỏi ông về điều mà họ phải làm để tỏ lòng hoán cải (Lc 3,12); (2) Những người thu thuế nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Công Chính (Lc 7,29); (3) Dụ ngôn người thu thuế cầu nguyện qua việc nhìn nhận tội lỗi của mình và được nên công chính (Lc 18,9-14); (4) Ông Dakêu, thủ lãnh những người thu thuế, hoán cải và được cứu độ; (5) Ơn gọi của ông Lêvi, một người thu thuế (chuyện này có trong Mc và Mt). Trong bối cảnh dụ ngôn này, cặp nhân vật này cũng được tác giả Luca mô tả với cái nhìn tích cực, vì họ dù tội lỗi nhiều nhưng thường đến và nghe Đức Giêsu giảng dạy, được đồng bàn với Đức Giêsu. Động từ “đến gần”, được dùng ở thể phân từ, thì hiện tại (Ἦσαν … ἐγγίζοντες), diễn tả một hành động kéo dài liên tục (họ cứ tiếp tục đến để nghe Người). Mệnh đề chỉ mục đích “để nghe Người” đồng hóa nhóm người này như là những người đáp trả lại lời mời gọi của Đức Giêsu ở cuối chương 14: “Ai có tai để nghe, thì hãy nghe” (Lc 14,35b).[3] Đức Giêsu cũng công bố một tương lai tươi sáng cho những người thu thuế và những cô gái điếm (những người tội lỗi): “Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông [những người Thượng Tế và Kỳ Mục] vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông mà các ông không tin ông ấy, còn những người thu thuế và những cô gái điếm thì tin” (Mt 21,31-32). Tv 51 nói về viễn cảnh những người tội lỗi trở về khi họ được dạy về đường lối Chúa: “Đường lối Ngài, con sẽ dạy cho những người tội lỗi, ai lạc bước sẽ trở lại cùng Người” (Tv 51,15). Ông Phaolô nhìn nhận rằng: “Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: Đức Kitô đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi mà kẻ đầu tiên là tôi” (1 Tm1,15). Những người thu thuế và những người tội lỗi có thể tương ứng với “con chiên lạc” trong dụ ngôn thứ nhất và “đồng bạc bị mất” trong dụ ngôn thứ hai, vì cuối mỗi dụ ngôn, Đức Giêsu đều chốt lại với câu kết luận liên quan đến “một người tội lỗi hoán cải”.
  2. Những Kinh Sư và những người Pharisêu: Đối lại với cặp nhân vật “người thu thuế-người tội lỗi” là cặp nhân vật “người Kinh Sư-người Pharisêu”. Đây là cặp nhân vật được những người Do Thái đương thời tôn trọng, yêu mến vì sự hiểu biết và những thực hành đạo đức. Họ là những người công chính theo nghĩa là những người giữ Lề Luật (Mt 5,20). Họ chịu trách nhiệm giảng dạy dân chúng (Mt 23,2). Tuy nhiên, họ thường được mô tả như là những cặp nhân vật “phản diện” trong các sách Tin Mừng. Họ thường tranh cãi với Đức Giêsu về truyền thống của tiền nhân (Mc 7,1-3). Tranh luận về luật “chữa bệnh vào ngày Sabát” (Lc 6,6). Họ nghĩ Đức Giêsu phạm thượng khi Người tuyên bố tha tội cho người bại liệt (Lc 5,21). Họ căm giận Đức Giêsu và gài bẫy để bắt lỗi Đức Giêsu (Lc 11,53-54). Họ thường trách cứ và lấy làm khó hiểu, khi Đức Giêsu ăn uống và làm bạn với những người thu thuế và những người tội lỗi (Lc 5,30; 15,1). Trong Tin Mừng Mátthêu, họ được gọi là “giả hình” nhiều lần (Mt 23,13.14.15.23.25.27.29). Trong bối cảnh này, họ xuất hiện như cặp nhân vật không hài lòng với sự kiện Đức Giêsu chào đón cặp nhân vật “người thu thuế-người tội lỗi”. Họ được mời gọi chia sẻ lòng thương xót của Chúa dành cho những người tội lỗi. Những Kinh Sư và những người Pharisêu có thể tương ứng với “chín mươi chín người công chính không cần phải hoán cải”. Dầu vậy, cũng không nhất thiết như thế, vì Đức Giêsu dường như không nhằm chỉ trích những người Pharisêu khi kể những dụ ngôn này.
  3. Dụ ngôn: Danh từ dụ ngôn được dùng ở số ít (τὴν παραβολὴν ταύτην: Dụ ngôn này), nhưng thực ra, Đức Giêsu kể một loạt ba dụ ngôn: Người đàn ông và con chiên lạc (15,4-7); Người phụ nữ và đồng bạc bị mất (15,8-10); Người cha và hai người con (15,11-32). Như thế, danh từ dụ ngôn, dùng ở số ít có thể hiểu là dụ ngôn “ba trong một” vì ba dụ ngôn này diễn tả cùng một chủ đề “sự tha thứ và đón nhận cách quảng đại” và đỉnh cao là dụ ngôn thứ ba, nói về tương quan giữa người cha và những người con trong gia đình.
  4. Cứ lẩm bẩm kêu trách (διεγόγγυζον): Động từ được dùng để mô tả hành động của nhóm những người Pharisêu, là một động từ ở thì chưa hoàn thành, diễn tả một hành động kéo dài chưa có hồi kết. Họ cứ “càu nhàu”. Nội dung của lời “càu nhàu” là: “Ông này cứ chào đón và ăn uống với họ (những người thu thuế và những người tội lỗi). Sự càu nhàu này giả định một điều cấm kỵ, không cho phép một người thầy, một vị ngôn sứ như Đức Giêsu tiếp xúc với những người tội lỗi. Theo quan điểm của những bậc thầy Do Thái, có một ranh giới phân biệt giữa những người công chính và những người tội lỗi. Họ không thể đồng bàn với nhau. Đức Giêsu muốn xóa bỏ ranh giới này để kéo họ lại gần với nhau. Trong văn hóa của người Đông Phương, chào đón một người đến đồng bàn là một vinh dự. Đó là một sự trao ban bình an, sự tin tưởng, tình huynh đệ và sự tha thứ. Nói tóm lại, chia sẻ bàn ăn là chia sẻ cuộc sống. Trong Do Thái giáo nói riêng, tình bằng hữu đồng bàn có nghĩa là tình bằng hữu trước mặt Chúa, vì việc ăn một miếng bánh được một người đồng bàn bẻ ra là chia sẻ cùng một lời chúc lành, mà người chủ nhà đã nói trên tấm bánh chưa được bẻ ra. Như thế, việc Đức Giêsu chào đón và đồng bàn với những người thu thuế và những người tội lỗi, không chỉ là một sự kiện ở cấp độ xã hội, không chỉ là một lòng nhân đạo bất thường hay sự quảng đại mang tính xã hội hay là sự cảm thông của Người với những người bị ghét bỏ, nhưng phải có một ý nghĩa sâu sắc hơn. Đó là một biểu lộ của sứ vụ cứu độ, một tình yêu cứu chuộc dành cho những người tội lỗi.[4] Người bao hàm những người tội lỗi vào trong cộng đoàn cứu độ. Sự “càu nhàu” này là bối cảnh để Đức Giêsu kể dụ ngôn kép. Tác giả Mátthêu cũng ghi lại dụ ngôn “con chiên lạc” (18,12-14), nhưng đặt trong bối cảnh những bài giảng liên quan đến đời sống cộng đoàn (Mt 18). Tác giả Tin Mừng thánh Tôma (Một ngoại thư, không được nhận vào Quy Điển) giới thiệu dụ ngôn “con chiên lạc” như là một dụ ngôn về Nước Trời: “Đức Giêsu nói: Vương Quốc như là một người chăn chiên có một trăm con chiên …” (TM Tô-ma, 107).[5]
  5. “Người nào trong các ông ? … Người phụ nữ nào?” (τίς ἄνθρωπος ἐξ ὑμῶν … τίς γυνὴ): Cách đặt câu hỏi tu từ này giả định trước một câu trả lời khẳng định: Đúng vậy, ai cũng làm như thế… người phụ nữ nào cũng làm như vậy.[6] Đây cũng chính là cách đặt câu hỏi Đức Giêsu đặt ra với các nhà thông luật và những người Pharisêu về luật cấm làm việc vào ngày Sabát: “Ai trong các ông, có người con trai hay con bò bị rơi xuống giếng vào ngày Sabát, lại không kéo nó lên ngay lập tức” (Lc 14,5); “Ai trong các ông, vào ngày Sabát, không cởi dây bò hay lừa ra khỏi chuồng và dẫn nó đi uống nước? Câu trả lời chắc chắn là: “Đúng vậy. Ai cũng sẽ kéo nó lên ngay lập tức, ai cũng sẽ dẫn nó đi uống nước” (Lc 13,15. Khi đặt câu hỏi như vậy Đức Giêsu không những thu hút họ vào câu chuyện của mình, mà còn dẫn họ theo quan điểm, ý hướng của mình. Sự đồng tình với câu trả lời “khẳng định” bao hàm tất cả các hành động của nhân vật trong câu chuyện: Mất một con – bỏ chín mươi chín con trong sa mạc … tìm cho đến khi tìm được … đặt lên vai … quy tụ bạn bè và những người hàng xóm … mời gọi chung vui vì đã tìm lại được con chiên lạc; Mất một đồng … đốt đèn … quét nhà … tìm kiếm cẩn thận … tìm được … quy tụy bạn bè và những người hàng xóm … mời gọi chung vui, vì đã tìm được đồng bạc bị mất.
  6. Một người đàn ông … một người phụ nữ: Trong câu chuyện thứ nhất, nhân vật chính rất có thể là một người đàn ông. “Người nào trong các ông”, nghĩa là, người nào trong “các Kinh Sư và những người Pharisêu”, là những người đàn ông. Hơn nữa, tính chất công việc, người chăn chiên trong sa mạc, và đi tìm chiên trong sa mạc không thể là người phụ nữ được. Đối lại với người đàn ông chăn chiên nơi sa mạc với những con chiên, là một người phụ nữ ở trong nhà với túi tiền. Người đàn ông ứng với những khách mời đến chung vui vào cuối dụ ngôn là những người bạn và những người hàng xóm nam giới (τοὺς φίλους καὶ τοὺς γείτονας); Những người khách mời đến chung vui với người phụ nữ phải là nữ giới (τὰς φίλας καὶ γείτονας). Luca là tác giả duy nhất có dụ ngôn “người phụ nữ và đồng bạc bị mất”, và dụ ngôn này được đặt ngay sau dụ ngôn “người đàn ông và con chiên lạc”. Cách sưu tập và soạn thảo này cho thấy tác giả Luca dường như muốn cân bằng vai trò của phụ nữ và nam giới trong Tin Mừng của mình. Tác giả thường có thói quen kể xen kẽ câu chuyện của người đàn ông với câu chuyện của một người phụ nữ.[7] Vai trò của phụ nữ là một trong những điểm thần học nổi bật của Tin Mừng thứ ba, so với các Tin Mừng còn lại. Nơi Tin Mừng này, độc giả gặp thấy, những trình thuật về “Thời Thơ Ấu” có liên quan đến Đức Maria, nữ ngôn sứ Anna. Những trình thuật liên quan đến những người phụ nữ khác như là bà góa thành Nain (7,11-17), nhóm những người phụ nữ đồng hành với Đức Giêsu và các môn đệ (8,1-3), người phụ nữ tội lỗi xức dầu cho Đức Giêsu (7,36-50), hai cô Maria và Mátta (10,38-42), người phụ nữ và đồng bạc bị mất, người góa phụ dâng hai đồng tiền kẽm (21,1-4), những người phụ nữ chứng kiến cái chết và sự mai táng của Đức Giêsu (24,49.55-56).[8]
  7. Một trăm con chiênmười đồng bạc[9]: Tỉ lệ rõ ràng giảm dần giữa hai dụ ngôn. Từ một phần trăm (một trăm con chiên, lạc mất một con), giảm xuống còn một phần mười (mười đồng bạc, mất một đồng). Nếu đọc tiếp dụ ngôn thứ ba, tỉ lệ giảm xuống còn một phần hai (hai người con). Số lượng tài sản sở hữu càng giảm thì số lượng mất càng tăng lên. 1/100 nhỏ hơn 1/10 nhỏ nhỏ hơn 1/2.(1/100 < 1/10 < 1/2). Đây đều là những con số cho thấy sự hoàn hảo, tròn đầy: 2 (một cặp); 10 (điểm mười, một chục); 100. Việc thiếu đi một làm cho con số không còn trọn vẹn nữa.
  8. Bỏ lại chín mươi chín con trong sa mạc … tìm cho đến khi tìm được … đốt đèn và quét nhà để tìm cẩn thận: Số lượng mất ít hay nhiều, bị mất vì lý do gì, vật nuôi hay tiền bạc, chủ nhân đàn ông hay phụ nữ, điểm chung là sự quyết tâm tìm kiếm. Trong dụ ngôn thứ nhất, sự quyết tâm được diễn tả bằng hai hành động: (i) Bỏ lại chín mươi chín con trong sa mạc; (ii) Tìm cho đến khi tìm được. Bỏ lại chín mươi chín con trong sa mạc có thể được hiểu theo hai cấp độ. Thứ nhất, đó là hành động bình thường của những người chăn bò, chăn chiên. Khi một con bị lạc mất, người chăn chiên không ngần ngại rời đàn chiên để đi kiếm con chiên lạc, vì đàn chiên còn lại vốn ổn định, không bị mất.[10] Thứ hai, người ta có thể dựa vào cụm động từ “bỏ lại… trong sa mạc” để cho thấy người chăn chiên quá bận tâm đến con chiên bị mất, đến nỗi quên đi đàn chiên còn lại cũng có thể bị nguy hiểm, hoặc lạc mất. Liên từ “cho đến khi” (ἕως) được đặt trước động từ “tìm được, tìm thấy” diễn tả sự quyết tâm, kiên trì của người chăn chiên. Ông không quản ngại thời gian, vượt bao nhiêu khó khăn, đi quãng đường bao xa cho đến khi tìm được con chiên lạc mới thôi. Ở dụ ngôn thứ hai, Đức Giêsu cũng cho thấy mức độ quyết tâm của người phụ nữ qua hai hành động “đốt đèn”, “quét nhà”. Đốt đèn để làm sáng mọi ngóc ngách của căn nhà vách đất kín, thiếu ánh sáng mặt trời từ bên ngoài. Quét là phương pháp tốt nhất để tìm những vật nhỏ như đồng bạc, trong mọi góc của căn nhà có nền bằng đất nện hoặc đá, không mấy bằng phẳng.[11] Trạng từ “cẩn thận, chăm chỉ” (ἐπιμελῶς) được đặt sau động từ “tìm kiếm” nhằm nhấn mạnh thái độ tìm kiếm, cùng với liên từ “cho đến khi” (ἕως) được đặt trước động từ “tìm thấy, tìm được” nhấn mạnh sự kiên trì của người phụ nữ.[12] Sự kiên trì tìm kiếm của cả hai nhân vật trong câu chuyện là những hình ảnh sống động cho quan tâm, tìm kiếm liên lỉ của Chúa, nhưng không gột tả hết được mức độ, cường độ tìm kiếm của Người đối với những người tội lỗi, bất chính.[13]
  9. “Quy tụ” … “Chung vui”: Cả hai động từ này đều được lặp lại hai lần với cùng một cách chia: Một lần cặp động từ này được dùng cho người đàn ông chăn chiên và lần kia cho người phụ nữ. Điểm đặc biệt chung của cả hai động từ này là cả hai đều có tiền tố là một giới từ “với, cùng” diễn tả một sự bao gồm, cùng nhau, làm gì đó. Động từ “συνκαλέω” có nghĩa là “gọi đến cùng” hay có thể nói trải ra là “quy tụ”, “tập họp”, “mời mọi người đến với mình”. Động từ “συγχαίρω” có nghĩa là “mừng vui với”, “chia sẻ niềm vui với”, “hưởng niềm vui với”. Như vậy, cả người đàn ông chăn chiên và cả người phụ nữ đều không ngại tốn kém để mời gọi nhiều người đến để chia sẻ niềm vui với mình, niềm vui của người tìm được con chiên hay đồng bạc bị mất. Hành động của hai người này có thể lý giải theo ba cách: (i) Niềm vui tìm lại được tài sản bị mất là niềm vui quá lớn, không thể không ăn mừng; (ii) Niềm vui chỉ có ý nghĩa thật sự khi nó được chia sẻ với những người khác; (iii) Tính cộng đoàn, tình bằng hữu trong xã hội con người (người ta luôn cảm thấy cần phải chia sẻ vui buồn với người khác, vì không ai sống một mình). Có thể nói rằng, Lc 15,4-10 là một một đoạn văn đầy niềm vui và chung vui. Có đến năm lần Đức Giêsu đề cập đến niềm vui và tiệc mừng (5.6.7.9.10). Từ niềm vui cá nhân biến thành niềm vui tập thể. Niềm vui của người đàn ông tìm được con chiên lạc và niềm vui của người đàn bà tìm được đồng bạc bị mất, trở thành niềm vui của tất cả các bạn hữu và những người hàng xóm.
  10. “Cũng vậy, cùng một thể thức” (οὕτως): Sau hai dụ ngôn, Đức Giêsu đều kết thúc bằng một câu được xem như là lời giải thích của Người. Đây là cách hành văn theo kiểu quy nạp. Đức Giêsu đi từ luận cứ cụ thể dẫn đến kết luận bao trùm. Câu kết luận bắt đầu bằng trạng từ “cũng vậy”, diễn tả sự so sánh, đối chiếu giữa dụ ngôn và thực tế trên trời. Hay nói đúng hơn đó là một sự so sánh giữa niềm vui của những người dưới đất và niềm vui của thế giới thần linh. Cấu trúc của câu kết luận của Đức Giêsu bao gồm bốn thành phần: “Một trạng từ” chỉ sự so sánh (cũng vậy) + niềm vui + nơi chốn (trên trời, trước mặt các thiên thần) + lý do (một người tội lỗi hoán cải). Đức Giêsu mượn những câu chuyện hiển nhiên ở trần gian để minh họa cho chuyện thực tế trên trời. Người mượn niềm vui tìm thấy tài sản để nói về niềm vui tìm thấy người tội lỗi.
  11. “Một người tội lỗi hoán cải” (ἑνὶ ἁμαρτωλῷ μετανοοῦντι): Danh xưng “người tội lỗi” được lặp lại ba lần trong đoạn văn này (15,1.7.10). Nhân vật này nối kết phần dẫn nhập với cả hai phần kết của hai dụ ngôn. Những người tội lỗi cứ đến với Đức Giêsu để nghe Người, theo Đức Giêsu, là “người tội lỗi hoán cải”. “Người tội lỗi hoán cải” ở đây cũng bao gồm cả “những người thu thuế” được nói đến trong phần dẫn nhập nữa. Giới từ chỉ lý do – “vì” (ἐπὶ) – được đặt trước mệnh đề danh từ “một người tội lỗi hoán cải”, làm rõ lý do tại sao có niềm vui ở trên trời hay trước mặt các thiên sứ. Ở câu kết luận của dụ ngôn thứ nhất, có thêm vế so sánh “hơn chín mươi chín người công chính không phải hoán cải”. Có thể người ta cũng chờ đợi vế so sánh tương tự như thể ở câu kết luận của dụ ngôn thứ hai: “Hơn là chín người không cần hoán cải”, nhưng Đức Giêsu không lặp lại ý tưởng đó, mặc dù sẽ chẳng có vấn đề gì nếu Người lặp lại vế so sánh ấy. Vấn đề Đức Giêsu muốn nhấn mạnh là niềm vui khôn tả nơi thiên cung, khi có một người tội lỗi hoán cải, chứ không phải mỉa mai người công chính.[14] Cụm giới từ “trước mặt các thiên sứ của Thiên Chúa” diễn tả một niềm vui tập thể. Có một sự đảo ngược trong cấu trúc của câu kết luận này với cấu trúc diễn tả hành động của cả hai nhân vật trong hai dụ ngôn. Người đàn ông tìm thấy con chiên lạc và người phụ nữ tìm thấy đồng bạc bị mất, trong khi đó ở câu kết luận chủ thể là người tội lỗi hoán cải, không đề cập đến người tìm kiếm. Cấu trúc này hòa hợp với câu mở đầu khi tác giả cho biết những người tội lỗi tìm đến với Đức Giêsu: “Những người thu thuế và những người tội lỗi cứ đến để nghe Người” và Đức Giêsu “chào đón và ăn, uống với họ” (15,1-2). Nó cũng phù hợp với hành động của người con thứ trong dụ ngôn “người cha và hai người con”, trong đó người con thứ tự ra đi và tự tìm về với cha mình. Tác giả Luca, ngay từ đầu Tin Mừng, đã cho thấy những người thu thuế đến cùng ông Gioan Tẩy Giả để thỉnh vấn ông về những điều họ phải làm trong tiến trình hoán cải (Lc 3,12). Những câu chuyện Đức Giêsu làm bạn với những người thu thuế và những người tội lỗi, cũng được tác giả nhấn mạnh. Đặc biệt câu chuyện về ơn hoán cải của người thủ lãnh của những người thu thuế, Dakêu (Lc 19,1-10), cùng với hành vi ban nước Thiên Đàng ngay lập tức cho một người trộm cướp (người tội lỗi) hoán cải, cho thấy việc chào đón và vui mừng khi người tội lỗi hoán cải là điều hiển nhiên với Đức Giêsu.

Bình Luận Tổng Quát

Trên hành trình lên Giêrusalem, có nhiều người đến với Đức Giêsu để nghe Người giảng, trong đó, có cả những người “thu thuế” và “những người tội lỗi”. Họ là những thành phần bị những người sống theo lề luật như những người Pharisêu và Kinh Sư phân biệt đối xử. Đây là những người lãnh đạo tinh thần của đa phần người Do Thái thời bấy giờ. Việc Đức Giêsu tiếp xúc gần gũi, đặc biệt là đồng bàn với những người thu thuế và những người tội lỗi là điều cấm kỵ. Chính vì thế, họ luôn luôn “càu nhàu” khi thấy Đức Giêsu cứ chào đón niềm nở những người này và ăn uống với họ. Đối với Đức Giêsu, việc chào đón và đồng bàn với những người bị lạc mất là điều hiển nhiên, vì mục đích hành trình nhập thể của Người là để đồng hành với những người như thế: “Con Người đến đề tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10; Mt 18,11); “Tôi không để kêu gọi những người công chính, mà để kêu gọi những người tội lỗi hoán cải” (5,32; cf. Lc 13,1-5; 16,30; 24,47). Hiệu quả tỏ tường của những lời mời gọi hoán cải của Người là những ơn hoán cải ngoạn mục: Cuộc hoán cải của người thu thuế Lêvi (Lc 5,27-28); Cuộc hoán cải của người phụ nữ tội lỗi (Lc 7,36-50); Cuộc hoán cải của thủ lãnh thu thuế (Lc 19,1-10); Cuộc hoán cải của người trộm cướp (23,40-43). Dĩ nhiên, Đức Giêsu rất mừng vui vì những người tội lỗi hoán cải này. Tuy nhiên, Người cũng không thể bỏ qua suy nghĩ, quan điểm của những người đang cố gắng sống Lề Luật Chúa cách tốt lành, tạm gọi là “những người công chính”. Người cũng phải bận tâm làm sao để mời gọi những người như nhóm “Pharisêu” và “các Kinh Sư” có thể chung vui với mình, làm sao để nối kết một cộng đoàn gồm những người đã có thói quen sống theo Luật Chúa và những người vốn có lối sống không lành mạnh, nay được ơn hoán cải.[15] Đức Giêsu dùng hai dụ ngôn diễn tả tính hiển nhiên trong cách cư xử của người đương thời. Chuỗi hành động mà những người đương thời thường làm khi bị mất tài sản là: Làm mọi cách – tìm cho đến khi tìm được – quy tụ bạn bè và những người hàng xóm lại – mời gọi ăn mừng. Trong hai dụ ngôn (có thể gọi là dụ ngôn kép), cả người đàn ông mất chiên và người đàn bà mất đồng bạc đều hành động như nhau. Họ rất vui mừng vì tìm được tài sản bị mất, nhưng họ không muốn vui một mình. Họ muốn niềm vui của mình được nhân rộng và trọn vẹn khi được nhiều người chung vui, mặc dù có thể họ phải chi phí tốn kém hơn phần tải sản họ vừa tìm lại được. Từ câu chuyện đời thường, trên trái đất, Đức Giêsu hướng đến thực tại cứu độ, trên trời. Từ con chiên và đồng bạc bị mất được tìm thấy, Đức Giêsu chuyển qua hình ảnh người tội lỗi hoán cải. Từ niềm vui của những người tìm thấy tài sản bị mất Đức Giêsu tỏ lộ niềm vui của các thiên sứ trên trời. Một người tội lỗi chắc chắn giá trị gấp ngàn lần nếu so với một con chiên hay một đồng bạc. Một con chiên, một đồng bạc, chỉ là một của sở hữu nay còn mai mất; trong khi đó, một con người là hình ảnh của Thiên Chúa, có giá trị vĩnh cửu và duy nhất. Sự hoán cải của một người tội lỗi đồng nghĩa với việc người này được đồng bàn với Chúa trên quê trời. Đó là một niềm vui tập thể và vĩnh cửu. Nếu như sự kiện người ta tìm lại được phần tài sản bị mất cần được chung vui như thế, thì việc Thiên Chúa tìm lại được những đứa con yêu quý của mình cần phải được chung vui gấp bội. Sự chào đón niềm nở của Đức Giêsu, niềm vui tìm thấy tài sản bị mất của các nhân vật trong câu chuyện và niềm vui của triều thần thiên quố, khi một người tội lỗi hoán cải, mở ra chân trời hy vọng và mời gọi trở về cho tất cả những người tội lỗi trên thế gian này. Qua mọi thời đại, thông điệp Tin Mừng của Đức Giêsu vẫn được rao giảng, và vẫn có nhiều người tội lỗi trở về với Chúa. Khi đó, lời mời gọi hãy hòa hợp, chung vui với Chúa và triều thần thiên quốc, vẫn được gửi đến những người xưa nay vẫn đang sống tốt trong gia đình Thiên Chúa. Cả hai dụ ngôn, (hay là dụ ngôn kép) đều có kết thúc mở. Không có một phản ứng đáp trả nào từ những người Pharisêu và Kinh Sư. Kết thúc mở của của dụ ngôn, mở ra chân trời đáp trả cách tự do cho nhóm Kinh Sư và Pharisêu trong câu chuyện và cho chính độc giả Kitô hữu qua mọi thời đại, đặc biệt là những người vẫn đang cố gắng sống tốt căn tính Kitô hữu, hay ơn gọi làm con Chúa mỗi ngày. Họ có sẵn sàng chung vui với Chúa, và với những người anh chị em tội lỗi có ơn hoán cải hay không? Tất cả đều tùy thuộc vào sự đáp trả tự do và quảng đại của mỗi người.

Lm. Jos. Phạm Duy Thạch, SVD

Chú thích:

[1] Nên đọc thêm chú giải Lc 15,11-32  trong LỜI BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI ῥήματα ζωῆς αἰωνίου: HAI NGƯỜI CON LẠC. Chú giải Tin Mừng CN IV MC C (Lc 15,1-3.11-32) (josephpham-horizon.blogspot.com).

[2] “In this Gospel they stand for the outcasts, the irreligious, and the immoral; in this episode they flock to Jesus as they had to John the Baptist in 3:12–13, anxious to hear him” [J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke X–XXIV. Introduction, translation, and notes (AnB; New Haven – London 2008) 28A, 1075].

[3] L.T. Johnson, The Gospel of Luke (SP 3; Collegeville 1991) 235.

[4]J. Jeremias, New Testament Theology (New York: Charles Scribner’s Sons, 1971) 115.

[5] X. K.R. Snodgrass, Stories with Intent. A Comprehensive Guide to the Parables of Jesus (Grand Rapids 2018) 88.

[6] V. L. Pederson, “Restoration and Celebration. A Call for Inclusion in Luke 15:1-10,” CurTM 41 (2014) 110–18, 115; “An examination of the contexts shows that the expected answer in all these cases is “No one,” which, since the question in 15:4 is asked as a negative (“will he not leave?”), means that any shepherd would leave the ninety-nine and go find the lost sheep” (K.R. Snodgrass, Stories with Intent, 91).

[7] “It is typical of Luke to match a male example with one involving a woman (d. 1:6-7; 2:36-38; 4:25, 38; 7:11-15, 36-50; 8:1-3, 19-21, 43-56; 10:38-42; 11:27; 13:10-17)” (L.T. Johnson, The Gospel of Luke, 236).

[8] M.D. Hamm, “Luke”, The Paulist Biblical Commentary (ed. J.E.A. Chiu et al.) (New York – London 2018) 1033.

[9] “In the first century a drachma was about the equivalent of a denarius, usually one day’s pay for a day worker (see Tob5:14)” (K.R. Snodgrass, Stories with Intent, 100).

[10] “Care for one sheep does not preclude care for all the sheep, and certainly some provision would be made for the ninety-nine, to leave them either in some enclosure or more likely with another shepherd” (K.R. Snodgrass, Stories with Intent, 93).

[11] “Houses typically were small and, if they had windows, the windows would be small, so light would be limited. The floors were either beaten earth or stone. Near Capernaum where basalt stone is plentiful, such stones were used for some floors. In fact, coins were found by archaeologists in the cracks of the floor in “Peter’s house” in Capernaum.” [x. S.M. Praeder, The Word in Women’s Worlds. Four Parables (Wilmington 1988) 41; P. Richardson, Building Jewish in the Roman East (Waco 2004) 76-81].

[12] “Three acts describe her unwearied, unstinted effort to find the lost coin. The darkness of an ancient (probably windowless) house in Palestine is alluded to” (J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke X–XXIV, 1081).

[13] “If a woman will search diligently for a lost coin, how much more will God diligently search for his lost people? The woman corresponds to God in the analogy, just as other female actions or attitudes are compared to God’s in the OT” (K.R. Snodgrass, Stories with Intent, 100).

[14] “If by the ninety-nine are meant the Scribes and Pharisees, then the conclusion is ironic—i.e. over ninety-nine allegedly upright persons. But it may only be a typically Lucan way of exaggerating God’s joy at a repentant sinner” (J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke X–XXIV, 1078).

[15] “The primary function of this parable for Jesus was a defense of his deliberate association with and eating with people known to be sinners” (K.R. Snodgrass, Stories with Intent, 96).

Bài trướcLỜI SỐNG (Thứ Sáu Tuần 23 TN)
Bài tiếp theoLỜI SỐNG (Chúa Nhật 24 Thường Niên – C)