Bài Ðọc I: St 2, 18-24
“Cả hai nên một thân thể”.
Trích sách Sáng Thế.
Chúa là Thiên Chúa phán: “Ðàn ông ở một mình không tốt. Ta hãy tạo dựng cho nó một nội trợ giống như nó”. Sau khi lấy bùn đất dựng nên mọi thú vật dưới đất và toàn thể chim chóc trên trời, Thiên Chúa dẫn đến trước mặt Ađam để coi ông gọi chúng thế nào, và sinh vật nào Ađam gọi, thì chính đó là tên nó. Ađam liền đặt tên cho mọi súc vật, chim trời và muông thú. Nhưng Ađam không gặp một người nội trợ giống như mình.
Vậy Thiên Chúa khiến cho Ađam ngủ say, và khi ông đang ngủ, Người lấy một xương sườn của ông, và đắp thịt lại. Thiên Chúa làm cho chiếc xương sườn đã lấy từ Ađam trở thành người đàn bà, rồi dẫn đến Ađam. Ađam liền nói: “Bây giờ đây xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Người này sẽ được gọi là người nữ, vì bởi người nam mà ra”. Vì thế, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai nên một thân thể.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 127, 1-2. 3. 4-5. 6
Ðáp: Nguyện Chúa chúc phúc cho chúng con hết mọi ngày trong đời sống chúng con! (x. c. 5).
Xướng: 1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người! Công quả tay bạn làm ra bạn được an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may. – Ðáp.
2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn. Con cái bạn như chồi non của khóm ô-liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn. – Ðáp.
3) Ðó là phúc lộc dành để cho người biết kính sợ Chúa. Nguyện Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn. – Ðáp.
4) Và để bạn nhìn thấy lũ cháu đàn con. Nguyện xin bình an đến trên đất Israel. – Ðáp.
Bài Ðọc II: Dt 2, 9-11
“Ðấng thánh hoá và những người được thánh hoá, tất cả đều do một nguồn gốc”.
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, Ðấng trong một thời gian bị hạ xuống kém các Thiên Thần, là Ðức Giêsu, chúng ta thấy Người được triều thiên vinh quang và danh dự vì cuộc tử nạn của Người, để nhờ ơn Thiên Chúa, Người chịu chết thay cho mọi người. Quả vậy, thật là thích hợp việc Chúa là nguyên nhân và cùng đích mọi vật, đã dẫn đưa nhiều con cái đến vinh quang và đã lấy cuộc khổ nạn mà làm cho Ðấng đem lại ơn cứu rỗi được hoàn hảo. Vì chưng, Ðấng thánh hoá và những người được thánh hoá, tất cả đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người không hổ thẹn gọi họ là anh em.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 17, 17
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Lời Cha là chân lý; xin hãy thánh hoá chúng trong sự thật”. – Alleluia.
Phúc Âm: Mc 10, 2-12
“Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, những người biệt phái đến gần và hỏi thử Chúa Giêsu rằng: “Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?” Người đáp: “Môsê đã truyền cho các ông thế nào?” Họ thưa: “Môsê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị”. Bấy giờ Chúa Giêsu đáp lại: “Chính vì sự cứng lòng của các ông, mà Môsê đã viết ra điều luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Như thế, họ không còn là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ”.
Về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điểm đó. Và Người bảo các ông: “Ai bỏ vợ mình và lấy vợ khác, thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng và lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình”.
{Bấy giờ người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để Người đặt tay trên chúng, nhưng các môn đệ khiển trách họ. Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng: “Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng. Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó”. Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng.}
Ðó là lời Chúa.
Bài giảng/ chia sẻ chủ đề:
HÔN NHÂN CÔNG GIÁO (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Thức, SVD)
Ngay từ thời sơ khai, con người đã biết thiết lập đời sống gia đình để duy trì giống nòi. Hơn nữa, khi loài người hình thành xã hội tính và tôn giáo tính thì các lề luật về hôn nhân gia đình được xây dựng nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi đôi bên và ổn định trật tự xã hội. Trên thực tế, đời sống hôn nhân gia đình mang lại nhiều niềm vui và hạnh phúc cho con người. Tuy nhiên, đời sống hôn nhân trong mọi thời đại và mọi nền văn hóa luôn luôn có những thách đố và thường gặp rất nhiều khó khăn. Để vượt qua được những khó khăn thử thách ấy, các thành viên trong gia đình cần tôn trọng luật hôn nhân của xã hội và đặc biệt hơn là tôn trọng lề luật của Thiên Chúa được thi hành trong Giáo Hội Công Giáo. Để hiểu rõ hơn về luật hôn nhân và làm thế nào để thực hành luật ấy một cách có hiệu quả, chúng ta cùng nhau suy nghĩ và tìm hiểu hai điểm sau đây.
Thứ nhất là hôn nhân trong tinh thần của luật Cựu Ước và luật dân sự hiện đại.
Qua câu chuyện giữa những người Pharisiêu chất vấn Đức Giêsu về việc ly dị của người Do Thái, phần nào chúng ta hình dung được bức tranh hôn nhân thời Đức Giêsu. Khi được hỏi về hôn nhân trong luật Môsê, những người Pharisiêu trả lời: “Ông Môsê cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ” (Mc 10,4). Hay trong sách Đệ Nhị Luật cũng ghi rằng: “Người đàn ông đã ăn ở với vợ và sau đó thấy có điều gì chướng thì sẽ viết cho người này chứng thư ly dị trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà” (Đnl 24,1). Điều chướng là thế nào? Đó là làm phật ý chồng, phạm phải một sai lầm nào đó, không tôn trọng gia đình chồng, hay ngoại tình… Nếu phân tích kỹ luật Cựu Ước, chúng ta thấy rõ luật này còn phụ thuộc nhiều vào một nền văn hóa mà nơi đó người phụ nữ không được coi trọng, nền văn hóa mà người phụ nữ chỉ được xếp ngang hàng với các vật sở hữu của đàn ông. Chúng ta không thấy luật Cựu Ước cho phép người phụ nữ ghi chứng thư ly dị đối với người chồng và đuổi anh ta ra khỏi nhà. Quả thật đây là điều bất công của xã hội và tôn giáo người Do Thái thời bấy giờ dành cho nữ giới.
Còn luật hôn nhân dân sự thì sao? Hiện nay phần lớn luật dân sự của các quốc gia cho phép ly dị vì một số lý do được xem là chính đáng mà các cặp vợ chồng thỏa thuận với nhau bằng đơn ly hôn đã được ký kết. Tuy nhiên, khi ly dị được tán thành, nó thường mang lại nhiều hệ lụy cho xã hội, từ việc những người con bị sốc tinh thần do xáo trộn đời sống gia đình dẫn đến ảnh hướng tiêu cực đến tương lai, cũng như việc xã hội phải gánh chịu những gánh nặng mà hôn nhân tan vỡ để lại.
Giáo Hội Công Giáo cũng gặp khá nhiều khó khăn trong việc hướng dẫn cho các gia đình đang có vấn đề về cuộc sống hôn nhân thiếu hòa hợp hoặc có nhu cầu được ly dị khi các trường hợp này ngày càng nhiều hơn. Thực tế cho thấy, trong Giáo Hội Công Giáo, tòa án hôn phối nhất trí cho một số trường hợp được tái hôn. Vậy điều này có nghịch với luật Chúa không? Xin thưa là không, bởi vì các tòa án hôn phối của các Giáo Hội địa phương đã đầu tư nhiều thời gian và công sức để điều tra sự thật về những cuộc hôn nhân tan vỡ này. Giáo Hội chỉ có thể đồng ý cho những cuộc hôn nhân ‘không thành sự trọn vẹn’, vì nếu không thành sự thì luật không buộc họ phải tiếp tục sống với nhau nếu họ không muốn. Điều này đồng nghĩa với việc họ được tự do. Tuy nhiên, tất cả còn phụ thuộc vào lương tâm của cặp hôn nhân khi đưa ra các bằng chứng xác thực. Chỉ Thiên Chúa mới biết rõ tính xác thực của những bằng chứng, và chính họ phải chịu trách nhiệm về những lời chứng của họ trước mặt Thiên Chúa.
Thứ hai, Đức Giêsu đã kết luận như thế nào về luật ly dị?
Khi người Pharisiêu cố chấp trưng dẫn luật Môsê về việc cho phép ly dị, Đức Giêsu đã trả lời bằng việc đưa họ trở về với sách Sáng Thế, “ngay lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam, có nữ…Vậy sự gì Thiên Chúa đã ràng buộc loài người không được phân li” (x. Mt 10,6-9). Ngài còn khẳng định thêm rằng: “Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê viết điều đó cho các ông” (Mc 10,5-6). Qua đó chúng ta xác tín rằng, luật hôn nhân là luật được Thiên Chúa thiết lập, tuyệt đối con người không có quyền sửa đổi. Trong tinh thần Kitô Giáo, gia đình được thiết lập theo khuôn mẫu gia đình Thánh Gia Thất, cao hơn nữa là khuôn mẫu Thiên Chúa Ba Ngôi, bởi vì mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi được đặt trên nền tảng yêu thương và thủy chung muôn thuở muôn đời. Lịch sử cứu độ chứng minh lòng chung thủy của Thiên Chúa với loài người chúng ta. Cho dù loài người đã biết bao nhiêu lần vong ân bội nghĩa, nhưng Ngài vẫn trung thành, kể cả phải hy sinh người con yêu quý là Đức Giêsu làm cầu nối giao hòa với Ngài. Ngài muốn hôn nhân gia đình được tiếp nối và được xây dựng trên nền tảng yêu thương, chung thủy, và tôn trọng lẫn nhau. Ngài cũng muốn những người con của Ngài được sinh ra và lớn lên trong một gia đình có đủ tình thương trọn vẹn của cả cha và mẹ vì chính họ mang khuôn mặt yêu thương của Thiên Chúa.
Thật vậy, qua ánh sáng của lời Chúa hôm nay, chúng ta, đặc biệt những ai sống đời hôn nhân, được nhắc nhớ rằng: cho dù xã hội loài người có thay đổi, nghĩa là trời đất này có qua đi, nhưng lời Chúa thì không được thay đổi. Để xây dựng một gia đình bền vững, các thành viên phải chuẩn bị cho mình những quyết định chín muồi dựa trên những điều Chúa dạy cách cẩn thận, không vội vã và không hời hợt. Chính Đức Giêsu tuyên bố rằng: “Vậy ai nghe những lời thầy nói đây và đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên nền đá. Dù mưa sa bão tố ập vào, thì nhà ấy cũng không lay chuyển” (x. Mt 7,24). Đồng thời, đôi bạn phải tin tưởng vào sự quan phòng, khôn ngoan của Chúa Thánh Thần để nhờ Ngài hướng dẫn soi sáng giúp vượt qua những thử thách, những khó khăn hằng ngày của đời sống hôn nhân.
SỰ GÌ THIÊN CHÚA KẾT HỢP, LOÀI NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC PHÂN LY (Tu sĩ Phêrô Phan Thái Hiền, SVD)
Tin Mừng hôm nay tường thuật việc nhóm người Pharisêu thử Đức Giêsu bằng một câu hỏi rằng: “người chồng có được phép rẫy vợ không?” Với câu hỏi này, Đức Giêsu đã trả lời cách khôn khéo vì câu trả lời không đi ngược lại với ý định ban đầu của Thiên Chúa, cũng như không chống lại luật của ông Môsê trong vấn đề hôn nhân. Ngài trả lời bằng cách lặp lại giá trị bền vững của đời sống hôn nhân trong ý định của Thiên Chúa, ngay từ thuở ban đầu trong sách Sáng Thế. Ngài khẳng định rõ ràng: “sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,9).
Trong bài đọc sách Sáng Thế cho biết, ngay từ thuở ban đầu, Thiên Chúa đã tạo dựng nên người nam và người nữ. Ngài kết hợp họ với nhau “người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ và cả hai thành một xương một thịt” (St 2, 24). Cũng vậy, khi thiết lập Bí tích Hôn Phối, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh đến chương trình nguyên thủy của Thiên Chúa: họ không còn là hai nữa, mà đã trở nên một. Tình yêu của hai người và chỉ hai người mà thôi; bình đẳng và hỗ tương; mãi mãi trọn cuộc đời. Người nam và người nữ sẽ được hạnh phúc, khi con người không phân ly sự gì Thiên Chúa đã kết hợp. Điều kiện cần thiết là, mỗi người phải biết cộng tác với ơn thánh Chúa, để tình yêu có thể được vun trồng, phát triển và sinh hoa kết quả.
Theo đạo Công Giáo, tình yêu giữa hai vợ chồng có ý nghĩa rất phong phú và sâu sắc, vì bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa và rập theo khuôn mẫu tình yêu giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Tình yêu đó có hai đặc tính là đơn nhất và bất khả phân ly. Đơn nhất nghĩa là một vợ một chồng vì “Họ không còn phải là hai, nhưng là một xương một thịt” (Mt 19,6; St 2,24). Bất khả phân ly nghĩa là không thể ly dị. Lý do sâu xa nhất đòi hỏi hai vợ chồng phải chung thủy chính là sự trung tín của Thiên Chúa với giao ước, và sự trung tín của Đức Kitô với Hội Thánh. Nhờ Bí tích Hôn Phối, hai vợ chồng được ban ơn để diễn tả và làm chứng cho sự trung tín ấy. Ngoài ra vì tính liên kết mật thiết giữa hai vợ chồng, cũng như lợi ích của con cái, buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín với nhau.
Nhìn vào thực trạng xã hội ngày nay, vấn đề hôn nhân khá phức tạp. Người ta rất dễ và tự do để yêu nhau rồi quyết định đến hôn nhân. Nhưng không hiểu vì lý do gì mà họ lại rất dễ lìa bỏ nhau để đi tìm niềm vui mới. Trước đây, việc hôn nhân là do ba mẹ quyết định, vì “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Nhưng dường như nó lại mang một hệ quả tích cực; họ sống rất chung thủy với nhau dù có gặp bao khó khăn thử thách. Vậy đâu là lý do khiến họ có thể giữ được hôn nhân bền vững và chung thủy như thế? Có thể nói rằng nó bắt nguồn từ văn hóa; khi con cái đến tuổi “dựng vợ gả chồng” thì dĩ nhiên cha mẹ sẽ phải tìm cho con họ một người xứng đáng. Và cứ thế, họ thích nghi và chấp nhận, tình yêu dần dà nẩy nở và đầm thấm. Kế đến, có thể do áp lực danh dự của dòng họ, nên sau khi kết hôn dù muốn hay không thì họ cũng phải cam chịu và cố gắng vun đắp gia đình của họ cách tốt nhất theo phương châm “cơm sôi bớt lửa”, nếu không, họ sẽ phải chịu luồng dị nghị từ những người hàng xóm. Hoặc cũng có thể thời trước, họ biết nhẫn nhịn và bỏ qua cho nhau sau khi xảy ra mâu thuẫn, hiểu lầm, bất đồng chính kiến … có lẽ đó là những lý do giúp đôi hôn nhân chung thủy với nhau thời bấy giờ.
Trong xã hội văn minh ngày nay, con người có trình độ học vấn cao và sự hiểu biết rộng hơn nên thường đề cao “quyền tự do và nhân quyền”. Thế nhưng, điều mà được người ta đề cao và coi trọng thì lại bị chính con người lạm dụng và phá đổ. Rồi dần dần nó khiến con người trở nên ích kỷ hơn. Và sự ích kỷ này là một mối nguy đe dọa đến hạnh phúc của đôi hôn nhân.
Như chúng ta thấy, hôn nhân là sự kết hợp giữa hai người nam và nữ, họ khác biệt nhau hoàn toàn về giới tính, lối sống và cách suy nghĩ. Vì vậy việc đôi hôn nhân sống chung với nhau có những khó khăn và thách đố không nhỏ. Vậy làm sao để đôi hôn nhân có thể hòa hợp sống chung với nhau và trọn đời không bội ước? Đối với người Công Giáo, thánh Phaolô khuyên rằng: “người làm vợ hãy tùng phục người làm chồng như phục tùng Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người” (Ep 5,22-23). Và “người làm chồng hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến thân mình vì Hội Thánh” (Ep 5,25). Với lời khuyên này, chúng ta thấy bổn phận của người làm vợ là phải biết chăm lo cho người chồng, chăm lo không theo nghĩa nô lệ, máy móc nhưng là chăm sóc cho người chồng với cả sự dịu ngọt, cảm mến, hy sinh và toàn tâm toàn ý cho người chồng. Và người chồng cũng phải có bổn phận yêu thương hết lòng với người vợ. Thậm chí bổn phận của người chồng có phần trách nhiệm cao và nặng hơn vì thánh Phaolô so sánh tình yêu của người chồng dành cho người vợ phải giống như tình yêu của Đức Kitô dành cho Hội Thánh. Tình yêu mà Đức Kitô dành cho Hội Thánh đó chính là một tình yêu trao ban, Ngài trao cả thân thể Ngài cho Hội Thánh và hy sinh mạng sống của Ngài cho Hội Thánh. Và thánh Phaolô mời gọi người chồng phải yêu thương người vợ cũng giống như vậy. Quả thực, tình yêu của Đức Kitô dành cho Hội Thánh là hình mẫu cho các đôi hôn nhân để họ sống hạnh phúc và giữ trọn lời thề hứa với nhau. Vì thế, để cuộc hôn nhân được bền vững, các đôi hôn nhân phải biết sống trao ban, cho đi một cách nhưng không, sẵn sàng hy sinh những lợi ích bản thân vì người bạn đời, biết sống vì người bạn đời hơn là cho bản thân mình.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về ý định của Thiên Chúa ngay từ thuở ban đầu và ý định đó được Chúa Giêsu lặp lại cách rõ ràng: Hôn nhân là ơn gọi cao quý và ơn gọi ấy được Thiên Chúa kết hợp, chúc phúc qua việc cử hành Bí Tích Hôn Phối: “sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,9). Đồng thời, Tin Mừng cũng kêu gọi chúng ta chiêm ngắm lại tình yêu mà Đức Kitô dành cho Hội Thánh, tình yêu dâng hiến và tình yêu trao ban tất cả, kể cả mạng sống cho người mình yêu. Xin cho những người sống trong bậc hôn nhân luôn ý thức được giá trị cao quý trong ơn gọi hôn nhân, để họ biết tạ ơn Thiên Chúa và liên lỉ nài xin ân sủng của Ngài, để họ sống đẹp và sống trọn với người họ thương yêu. Và xin cho mỗi người chúng ta biết tạ ơn Đức Giêsu đã yêu thương Hội Thánh và hiến thân mình cho Hội Thánh để Hội Thánh được sống và sống dồi dào. Amen.
HÔN NHÂN VÀ TÌNH YÊU ĐỐI TRẺ THƠ (Lm. G.B. Hoàng Đình Ưng, SVD)
- Vấn đề hôn nhân
Khi những người Pharisêu đến chất vấn Chúa Giêsu, họ hỏi có được phép ly dị không, Chúa đã nhắc lại luật Môsê “Môsê cho làm giấy ly dị” (Mc 10,4; x. Đnl 24,1); Phải hiểu đây là một sự miễn chuẩn, mà sự miễn chuẩn là một ngoại lệ không hủy bỏ được luật căn bản là sự trung thành một vợ một chồng. Sự miễn chuẩn của Môsê là “vì lòng chai dạ đá của các ông” (Mc 10,5), nghĩa là việc bất đắc dĩ mà thôi, chứ đó không phải là luật thông thường. Nhân đó Chúa Giêsu chính thức rút lại luật của Môsê, và ban bố một luật mới, luật Tân Ước; đó là luật nhất phu nhật phụ và bất khả phân ly của hôn nhân: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,9). Giáo Hội vẫn luôn trung thành tuân giữ luật này cho đến hôm nay. Vì thế, ngày nay nhiều trường hợp Giáo Hội cho phép ly thân tạm thời hay vĩnh viễn cũng bất đắc dĩ mà thôi.
Đời sống hôn nhân và gia đình trong xã hội hôm nay, hơn bao giờ hết gặp rất nhiều khủng hoảng, dẫn đến mất hạnh phúc, ly dị. Nhiều người nhận xét rằng trong lịch sử loài người có lẽ chưa bao giờ nền tảng gia đình bị lung lay tận gốc như hôm nay. Điều này cũng không khỏi ảnh hưởng đến các gia đình Kitô hữu. Bởi thế, Giáo Hội hết sức lo lắng cho các bạn trẻ sắp bước vào đời sống hôn nhân và gia đình.
Có thể nói nạn ly dị trong xã hội hôm nay là một hiểm họa đáng báo động. Theo thống kê của nhiều nhà xã hội học mới đây cho thấy, tại những thành phố được gọi là văn minh, có đời sống hiện đại như New York, Paris, Tokyo, London … thì cứ 100 đôi vợ chồng trẻ cưới nhau thì có 75 đôi ly dị sau 1 đến 5 năm chung sống. Tình trạng này hiện nay không còn đóng khung nơi những nước giàu có văn minh mà đã lan nhanh đến những đất nước nghèo như đất nước chúng ta, với sự ảnh hưởng của Internet và các phương tiện truyền thông. Những thành phố lớn ở nước ta như thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ… qua thụ lý hồ sơ ở các tòa án cấp quận huyện, cho thấy hiện tượng ly hôn ngày càng gia tăng chưa có điểm dừng. Tình trạng xã hội hôm nay cho thấy lời Chúa Giêsu dạy hôm nay thật thời sự và cấp thiết.
Vấn đề ly dị là một vấn nạn lớn của thời đại chúng ta, một hiểm họa cho xã hội, nhưng nguyên nhân do đâu? Làm cách nào để có thể giảm thiểu vấn đề ly dị? Lý do dẫn đến ly dị có thể khởi đầu từ trăm ngàn lý do: khác biệt về tâm sinh thể lý, khó khăn trong đời sống vật chất… nhưng có lẽ lý do quan trọng vẫn là không được chuẩn bị tốt. Nhiều nghiên cứu đã kết luận rằng lấy nhau dễ, thì bỏ nhau cũng dễ thế thôi.
Đối với hôn nhân Kitô giáo, Giáo Hội chuẩn bị rất chu đáo qua các lớp giáo lý hôn nhân. Vậy muốn có đời sống Hôn Nhân Công Giáo vững bền, mang lại hạnh phúc bền lâu các bạn trẻ trước khi bước vào đời sống hôn nhân, cần phải chuẩn bị thật chu đáo, chẳng những về mặt giáo lý, mà còn chuẩn bị về mặt tâm sinh lý, đạo đức trong thời kỳ chuẩn bị hôn nhân.
- Tình yêu trẻ thơ
Chúa Giêsu ôm các trẻ nhỏ vào lòng và chúc lành cho chúng (Mc 10,16). Cử chỉ của Chúa Giêsu đối với các em nhỏ hôm nay, cũng là lời nhắc nhở cho chúng ta, các bậc làm cha làm mẹ hôm nay, phải biết ân cần chăm lo giáo dục và nhất là phải nêu gương sáng cho con cái của mình.
Chúng ta đang từng ngày chứng kiến bao nhiêu là tệ nạn xã hội: trẻ em bụi đời lang thang hè phố, xì ke ma túy ngay trong học đường, băng đảng, cướp giật, ăn chơi thác loạn trong giới trẻ. Những hệ quả này xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân cơ bản vẫn xuất phát từ trong gia đình khi cha mẹ không còn là tấm gương cho con cái noi theo hay cha mẹ trở nên gương mù cho con cái. Vì thế, nguyên nhân chính vẫn là gia đình. Giáo dục gia đình vẫn là vấn đề quan trọng để con cái lớn lên thành người. Nhiều bậc phụ huynh vì quá lo lắng việc làm ra của cải vất chất để con cái có tiền ăn học, có đời sống vật chất tiện nghi đầy đủ; thật ra, đây là việc làm chính đáng. Thế nhưng, nếu không quan tâm đến đời sống tinh thần, đời sống đức tin, đạo đức, đời sống tình yêu của đứa con thì đứa con không sớm thì muộn cũng sinh ra hư đốn, vì không ai có thể thay thế cho cha mẹ trong việc giáo dục này. Cha mẹ phải đóng vai trò chính còn nhà trường, các thầy cô giáo cũng chỉ là những người phụ giúp phần nào thôi chứ không thể thay thế được.
Ước gì Lời Chúa hôm nay một lần nữa nhắc nhở cho chúng ta là người Kitô hữu, những người trẻ biết chuẩn bị tốt cho ơn gọi của mình, người đi tu cũng như người sắp bước vào đời sống gia đình. Những người đang sống đời sống hôn nhân biết làm chứng cho Chúa bằng đời sống yêu thương, chung thủy; đồng thời, những bậc làm cha làm mẹ hãy biết chăm lo giáo dục cho con cái, nhất là biết làm gương sáng cho con cái mình.