Bài thuyết trình của Đức cha Anphong Nguyễn Hữu Long, Chủ tịch UBLBTM/HĐGMVN tại Hội thảo toàn quốc về Phúc Âm Hóa (TTMV Huế, 3.9.2018 – 6.9.2018)
Kính thưa……
Sách Công vụ Tông đồ cho biết sau khi Chúa ban lệnh lên đường và về trời, Hội Thánh tiên khởi ở Giêrusalem đã thi hành ngay sứ mạng loan báo Tin Mừng. Trong lễ Ngũ Tuần, sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã mở toang cửa, thánh Phêrô tung mẻ lưới đầu tiên, và đưa về 3.000 linh hồn (x. Cv 2,1-41). Từ đó, qua các thế kỷ, Giáo Hội không ngừng đem Tin Mừng đến tận mọi chân trời góc bể. Từng đoàn đoàn lớp lớp thừa sai lên đường, hành trang chỉ là cây Thánh Giá và cuốn Kinh Thánh, với quả tim rực lửa mến yêu Chúa và các linh hồn. Nếu chỉ tính từ năm 1615, thì dân tộc Việt Nam đón nhận hạt giống Tin Mừng đã được bốn trăm năm. Giáo phận Qui Nhơn là giáo phận mẹ của Đàng Trong, được thành lập từ năm 1659, vừa mừng kỷ niệm 400 năm đón nhận Tin Mừng (1618-2018).
Sứ mạng Phúc Âm Hóa (PÂH) được trao cho mọi tín hữu Chúa Kitô (Christifideles), bất luận là ai, có vị trí nào trong Giáo Hội. Người ta thường cho rằng sứ mạng này là của các vị thừa sai, nhà truyền giáo, linh mục, tu sĩ, mà ít để ý đến sự góp phần của người tín hữu giáo dân. Thật ra, mọi người đều được kêu gọi vào làm vườn nho cho Chúa. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Tông huấn Christifideles Laici đã viết: “Cả các anh nữa cũng hãy vào làm vườn nho cho tôi”: Lời mời gọi này không chỉ gửi tới các vị chủ chăn, linh mục, tu sĩ nam nữ, nhưng tới mọi người. Cả các giáo dân cũng được mời gọi đích danh, nhận lãnh từ Ngài một sứ vụ đối với Giáo Hội và thế giới” (CL. 2).
Cuộc Hội thảo PÂH lần này nhắm đặc biệt đến giới giáo dân vì là thành phần đông đảo nhất, và sau hai cuộc hội thảo dành cho giới tu sĩ (năm 2016) và các hội đoàn Công Giáo Tiến Hành (năm 2017) thì nay đến giáo dân. Hiểu theo nghĩa rộng, Christifideles (Tín hữu Chúa Kitô) bao hàm tất cả mọi người, từ linh mục, tu sĩ đến giáo dân, vì tất cả đều được thanh tẩy và được sai đi. Mục tiêu của cuộc Hội thảo này nhằm đào sâu và khích lệ các tín hữu giáo dân tham gia vào sứ mạng PÂH.
Trong bài thuyết trình sau đây, tôi xin trình bày 3 điểm chính:
I. Huấn Quyền về vai trò của người tín hữu giáo dân trong sứ mạng PÂH.
II. Nhận định về việc người giáo dân tham gia sứ mạng PÂH tại VN hiện nay.
III. Những đề xuất để việc tham gia sứ mạng này kết quả hơn.
I. HUẤN QUYỀN VỀ VAI TRÒ CỦA NGƯỜI GIÁO DÂN TRONG SỨ MẠNG PHÚC ÂM HÓA
Chúng ta có một kho văn kiện của Huấn quyền về vai trò người giáo dân. Cha Đaminh Trần Xuân Thảo đã gom các văn kiện này thành một tập sách mang tựa đề “Giáo dân trong một số tài liệu của Giáo Hội”. Tập sách này được cha tặng các tham dự viên cuộc hội thảo này. Chúng con xin cám ơn cha. Mong quý vị học hỏi, đào sâu để nắm vững những nguyên tắc mà Huấn Quyền đề ra. Tôi xin liệt kê những văn kiện nòng cốt nhất.
1. Hiến chế Tín lý (Lumen Gentium), Hiến chế Mục vụ (Gaudium et Spes), Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân(Apostolicam Actuositatem), Sắc lệnh Truyền Giáo (Ad Gentes) của Công đồng Vaticanô II.
2. Tông huấn Loan báo Tin Mừng (Evangelii Nuntiandi) của Đức Phaolô VI.
3. Tông huấn Kitô hữu Giáo dân (Christifideles Laici), Thông điệp Sứ vụ Đấng Cứu Thế (Redemptoris Missio), Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu (Ecclesia in Asia) của Đức Gioan Phaolô II.
4. Tông huấn Lời Chúa trong đời sống và sứ vụ của Hội Thánh (Verbum Domini) của Đức Biển Đức XVI.
5. Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng (Evangelii Gaudium) của Đức Phanxicô.
Quý vị cũng có một tập sách mang tựa đề “Loan báo Tin Mừng hôm nay”, do cha Đaminh Ngô Quang Tuyên dịch và tặng. Ở cuối sách (trang 73-86) có phần “Các mốc ngày tháng và các sự kiện truyền giáo quan trọng”, liệt kê những văn kiện của các cấp khác trong Tòa Thánh liên quan đến sứ mạng PÂH.
Sau cùng, quý vị cũng có bài “Laity and Mision of the Church” của cha Fabrizio Meroni mà chúng ta sẽ được gặp gỡ ngày mai, đề tài rất hợp với cuộc Hội Thảo này, bản dịch Việt ngữ của cha Ngô Quang Tuyên. Chúng con xin cám ơn cha Tuyên đã dịch và tặng nhiều tài liệu khác nữa cho các tham dự viên.
Sau đây, tôi xin dựa vào các văn kiện của Huấn Quyền để trình bày một số nét chính về vai trò người tín hữu Chúa Kitô trong việc tham gia vào sứ mạng PÂH.
1. Sứ mạng: Dụ ngôn “Thợ làm vườn nho” (Mt 20,1-16a) cho thấy thánh ý Chúa muốn mọi tín hữu của Ngài, bất luận là giáo sĩ, tu sĩ hay giáo dân, tham gia làm vườn nho cho Chúa. Đây là sứ mạng, không còn là một việc nhiệm ý, nghĩa là muốn hay không muốn, thích hay không thích, mà phải chu toàn để xứng danh là tín hữu Chúa Kitô.
Sứ mạng này phát xuất từ các bí tích Khai Tâm Kitô giáo, là các bí tích ban cho tín hữu vinh dự làm con Chúa, đồng thời trao sứ mạng, sai đi, làm cho Danh Chúa được nhiều người biết đến. Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các tông đồ và Giáo Hội sự vụ lệnh loan báo Tin Mừng. Sách Công vụ Tông đồ và các Thư thánh Phaolô cho biết các tín hữu thời sơ khai đã hăm hở và tích cực thực thi sứ mạng này.
Sứ mạng này luôn có tính cách hiện tại và thúc bách. Giáo Hội phải ở trong trạng thái truyền giáo, không ngưng nghỉ (x. EG số 25). Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo (x. AG. 2), nếu không truyền giáo thì không còn là Giáo Hội nữa!
Người tín hữu không được phép thụ động, thờ ơ với sứ mạng này: “Ngày nay, trong Giáo Hội cũng như trong thế giới, trong những thực tại xã hội, kinh tế, chính trị và văn hóa, có những hoàn cảnh mới mẻ đang đòi hỏi, một cách hết sức đặc biệt, hoạt động của giáo dân. Nếu trước đây thái độ thờ ơ đối với hoạt động này luôn luôn không thể chấp nhận được, thì ngày nay, thái độ ấy lại càng đáng khiển trách hơn bao giờ hết. Không ai được phép ở yên mà không làm gì cả” (CL. 3).
Sứ mạng của người kitô hữu ở ngay trong môi trường trần thế để thánh hóa thế gian: “Như vậy, trần gian trở thành môi trường và phương tiện cho ơn gọi Kitô giáo của giáo dân, bởi vì chính nó được dành để tôn vinh Thiên Chúa Cha trong Đức Kitô. Từ đó, Công Đồng có thể chỉ ra ý nghĩa riêng biệt và đặc thù của việc Thiên Chúa mời gọi giáo dân. Họ không được mời gọi rời bỏ vị thế họ đang sống nơi trần gian. Thực vậy, bí tích thánh tẩy không kéo họ ra khỏi trần gian, như thánh Phaolô đã nhấn mạnh: “Thưa anh em, khi được kêu gọi ở địa vị nào, mỗi người cứ ở địa vị đó trước mặt Thiên Chúa” (1 Cr 7,24); trái lại, Ngài trao cho họ một ơn gọi có liên hệ đích thực với tình huống của họ trong trần gian: thực vậy, giáo dân được “Thiên Chúa kêu gọi để, dưới sự hướng dẫn của tinh thần Phúc Âm, như men từ bên trong, họ thánh hóa thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình; và như thế, với lòng tin cậy mến sáng ngời, nhất là với chứng tá đời sống, họ tỏ lộ Chúa Kitô cho kẻ khác” (CL. 15).
Ngày nay, các thách thức nhiều hơn, nên việc giáo dân tham gia sứ mạng này càng thúc bách hơn: “Làm sao không nghĩ đến sự phổ biến của thái độ dửng dưng tôn giáo và thuyết vô thần dưới nhiều hình thức rất khác nhau, đặc biệt dưới hình thức có lẽ đang phổ biến nhất hiện nay, là khuynh hướng duy thế tục? Số người lìa xa Thiên Chúa trong cách sống thực tế càng ngày càng đông, dù rằng người ta vẫn nhìn nhận nhu cầu tôn giáo vẫn còn đó, khát vọng và nhu cầu tôn giáo không thể hoàn toàn mai một” (CL. số 4).
2. Gắn kết với Chúa: Để thi hành sứ mạng PÂH, trước hết các kitô hữu phải gắn kết với Ba Ngôi Thiên Chúa. Trước hết với Chúa Cha, là Cha mọi người. Danh Ngài cần được cả sáng, Nước Ngài phải được hiển trị. Tiếp đến, họ phải gắn kết với Đức Kitô, Đấng loan báo Tin Mừng Nước Trời đầu tiên đầy quyền năng vì Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng được xức dầu. Tín hữu cần “lắng nghe Đức Kitô, Đấng gọi họ làm việc trong vườn nho của Ngài”. Nhờ gắn kết với Đức Kitô, họ mới có thể “góp phần tích cực, có ý thức và trách nhiệm vào sứ vụ của Giáo Hội” (CL. 3). Sau cùng là gắn kết với Chúa Thánh Thần, là tác nhân không thể thiếu trong sứ mạng PÂH. Chính Ngài trước đó đã ở với Chúa Giêsu, rồi với Giáo Hội sơ khai để hướng dẫn mọi hoạt động PÂH. “Nhìn vào thời hậu Công đồng, các Nghị Phụ của Thượng Hội Đồng đã có thể nhận thấy đâu là cách thức được Thánh Thần sử dụng để tiếp tục làm cho Giáo Hội thêm tươi trẻ, bằng cách gợi lên trong Giáo Hội những năng lực mới của sự thánh thiện, với sự tham gia của đông đảo giáo dân” (CL số 2).
3. Lãnh vực: Hoạt động PÂH của người giáo dân bao gồm trong hai lãnh vực thiêng liêng và trần thế, nhưng họ phù hợp cách đặc biệt hơn với lãnh vực trần thế: “Các hoạt động trần thế là lãnh vực riêng biệt của người giáo dân, những người phải thực hiện tốt đẹp các công việc trần thế với tinh thần Kitô hữu”. Đối với lãnh vực thiêng liêng, sứ mạng của họ là “đem Phúc Âm của Chúa Kitô và ân sủng của Người cho nhân loại”. Với lãnh vực trần thế, sứ mạng của họ là “đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần và hoàn thiện những thực tại trần thế”[1]. “Hai phạm vi tuy khác biệt, nhưng trong ý định duy nhất của Thiên Chúa, chúng được liên kết với nhau đến nỗi chính Thiên Chúa muốn thâu tóm vũ trụ lại trong Chúa Kitô thành một tạo vật mới, khởi sự ở trần gian và hoàn tất trong ngày sau hết. Trong cả hai phạm vi, người giáo dân, vừa là tín hữu vừa là công dân, phải được hướng dẫn liên tục bằng một lương tâm Kitô giáo duy nhất” (AA).
“Trong việc loan báo và làm chứng này, các giáo dân có một vị trí độc đáo và không thể thay thế: nhờ họ, Giáo Hội Chúa Kitô hiện diện trong mọi lãnh vực rất khác nhau của thế giới, như là dấu chỉ và nguồn mạch hy vọng và tình yêu” (CL. 7).
“Việc tham gia ngày càng gia tăng của các cá nhân và các nhóm vào sinh hoạt xã hội là đường lối càng lúc càng được sử dụng hôm nay, ngõ hầu hòa bình trong ước mơ được trở thành hiện thực. Trên con đường này, chúng ta gặp thấy một số đông giáo dân quảng đại dấn thân trong những lãnh vực xã hội hay chính trị, dưới nhiều hình thức rất khác nhau, hoặc đứng trong các tổ chức, hoặc như những cộng tác viên thiện chí, và phục vụ các người hèn kém nhất” (CL. 6).
Trong lãnh vực trần thế, người tín hữu có nhiều thuận lợi hơn các linh mục và tu sĩ, bởi họ dễ dàng tiếp cận với người khác, chưa kể là có những nơi và những hoàn cảnh mà chỉ người giáo dân mới có thể len lỏi, tiếp cận được để loan báo Tin Mừng (AG. 17).
Người tín hữu giáo dân cần tránh hai thái cực sau đây: Một mặt, “cám dỗ quá miệt mài với những dịch vụ và trách vụ trong Giáo Hội, đến nỗi đôi khi xao lãng trên thực tế các trách nhiệm chuyên môn của mình thuộc các lãnh vực nghề nghiệp, xã hội, kinh tế, văn hóa và chính trị”; mặt khác, “cám dỗ ngược lại là bào chữa cho sự tách biệt không thể biện minh giữa đức tin và đời sống, giữa việc đón nhận Tin Mừng và hoạt động cụ thể trong các lãnh vực trần thế khác nhau” (CL. 2).
4. Hợp tác: Sự tham gia của giáo dân vào sứ mạng PÂH đòi hỏi sự hợp tác giữa mọi thành phần trong Giáo Hội: “Trong số nhiều chứng từ, chúng tôi thấy được một chứng từ về những năng lực đó, trong kiểu cách mới về sự cộng tác giữa linh mục, tu sĩ và giáo dân; trong sự tham dự tích cực vào phụng vụ, vào việc loan báo Lời Chúa, vào việc huấn giáo; trong nhiều dịch vụ và trách vụ được trao phó cho giáo dân, và họ đã đảm nhận rất tốt; trong việc nở rộ các nhóm, các hiệp hội, các phong trào tu đức và dấn thân; trong việc tham gia rộng rãi và rõ nét hơn của phụ nữ vào đời sống của Giáo Hội và sự phát triển của xã hội” (CL. 2).
LG 35 nói đến trách nhiệm của hàng giáo phẩm là hỗ trợ cho hoạt động tông đồ của giáo dân: đề ra nguyên tắc và giúp các phương tiện thiêng liêng; phối kết việc tông đồ của họ để đem lại lợi ích chung; giám sát giáo thuyết và những chỉ thị của Giáo Hội được tuân giữ… Trong Giáo Hội quả thực có nhiều công cuộc tông đồ do giáo dân có sáng kiến thành lập và điều hành. Nhờ những tổ chức tông đồ như thế, trong nhiều hoàn cảnh, Giáo Hội có thể chu toàn sứ mệnh của mình cách tốt đẹp, và do đó Hàng Giáo Phẩm thường ca ngợi và cổ võ các tổ chức đó. Nhưng không một sáng kiến nào được lấy danh nghĩa công giáo nếu không có sự ưng thuận của giáo quyền hợp pháp.
“Vì thế, các vị chủ chăn có bổn phận phải nhìn nhận và cổ võ các tác vụ, chức vụ và nhiệm vụ của giáo dân, những chức vụ và nhiệm vụ này đặt nền tảng trên bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức, hơn nữa, đối với phần đông trong số họ, còn thêm bí tích Hôn Phối. Ngoài ra, khi nhu cầu và lợi ích của Giáo Hội đòi hỏi, các vị chủ chăn có thể, chiếu theo quy tắc của luật chung, mà trao phó cho giáo dân một số chức vụ và nhiệm vụ, dù vẫn gắn liền với tác vụ riêng của vị chủ chăn, nhưng không buộc có ấn tích của bí tích Truyền Chức Thánh. Giáo luật quy định: “Nơi nào nhu cầu Giáo Hội đòi hỏi, và thiếu thừa tác viên thánh, thì các giáo dân, dù không có tác vụ đọc sách và giúp lễ, cũng có thể thay thế họ làm một số công việc, tỉ như thi hành tác vụ Lời Chúa, chủ tọa buổi cầu nguyện, ban phép Thánh Tẩy, cho rước lễ, theo các quy tắc luật định”. Tuy nhiên, việc thi hành một nhiệm vụ như thế không biến giáo dân thành một chủ chăn” (CL. 23).
Về phía giáo dân, sự tham gia của họ đòi hỏi sự vâng phục giáo quyền, sẵn sàng để mình được hướng dẫn, chứ không phải tự do làm theo ý mình.
Sự tham gia của giáo dân vào sứ vụ PÂH cách trực tiếp hay gián tiếp đều rất cần thiết, như Sắc lệnh về Tông đồ Giáo dân viết: “Trong những cộng đồng giáo hội, hoạt động của họ cần thiết đến nỗi nếu không có nó, chính hoạt động tông đồ của các chủ chăn thường không thể đạt được kết quả đầy đủ” (AA. số 10).
Để việc PÂH được tốt đẹp, cần sự hỗ trợ giữa các Giáo Hội địa phương với nhau về vật chất để có điều kiện hoạt động, mở mang; về tinh thần để nói lên sự hiệp thông; về nhân sự để hoạt động này được phát triển và có sinh lực (AG. 19).
5. Chứng tá: Người tín hữu giáo dân PÂH bằng chứng tá lời nói và đời sống, từ trong gia đình ra đến xã hội, tổ chức, nghề nghiệp, phù hợp nền văn hóa… để biến đổi xã hội tốt đẹp hơn, như muối, như men. Để được vậy, giáo dân cần được đào tạo. Nhiều người chỉ có thể nghe được Tin Mừng nhờ giáo dân sống gần họ. (AG. 21). “Công cuộc rao giảng Phúc Âm đó, nghĩa là sự loan báo Chúa Kitô bằng đời sống, chứng tá và lời nói, mang một sắc thái và hiệu quả đặc biệt vì được thể hiện trong những hoàn cảnh chung của trần gian” (LG. 35). Ai ai cũng biết câu nói thời danh của Đức Phaolô VI như sau: “Con người tân tiến mong nghe những chứng nhân hơn là những thày dạy, và nếu họ có lắng nghe các thày dạy là bởi vì các vị thày này là những chứng nhân” (2-10-1974: AAS, 66). Thánh Phêrô đã diễn tả điều này rõ ràng khi ngài chủ trương gương lành của một đời sống đáng kính và trong sạch là một việc chinh phục những kẻ từ chối nghe lời nói mà không cần phải nói một lời nào (x. 1Pr 3,1). Bởi thế, bằng việc làm và đời sống của mình, Giáo Hội sẽ truyền bá phúc âm hoá cho thế giới, nói cách khác, bằng chứng tá sống động của mình trong việc trung thành với Chúa Giêsu – chứng tá khó nghèo và không dính bén, chứng tá tự do trước những quyền lực thế gian, tóm lại, chứng tá của sự thánh thiện” (EN. 41).
6. Liên đới: Tính chất đồng trách nhiệm của giáo dân trong hoạt động của Giáo Hội. “Cùng chung một phẩm giá của những chi thể vì đã được tái sinh trong Chúa Kitô, một ân huệ được làm con cái, một ơn gọi trở nên trọn lành; chỉ có một ơn cứu độ, một niềm hy vọng duy nhất và một đức ái không phân chia”. Vì có phẩm giá chung của bí tích thánh tẩy, giáo dân là người đồng-trách-nhiệm trong sứ vụ của Giáo Hội, cùng với các thừa tác viên có chức thánh và với các tu sĩ nam nữ”. (CL. 15). Ý thức này sẽ thúc đẩy người tín hữu nhiệt huyết tham gia vào sứ mạng loan báo Tin Mừng bằng mọi cách, chứ không thản nhiên, thờ ơ, đẩy xa khỏi mình. Nếu con tàu chạy nhanh nhờ đầu tàu mạnh, thì cũng đừng quên rằng, đầu tàu mạnh chỉ phát huy hết nội lực nếu các toa tàu chuyển động theo.
7. Cổ võ và huấn luyện loan báo Tin Mừng: Sứ vụ PÂH thật quan trọng, cần được toàn thể Giáo Hội vận dụng nhân lực, vật lực vào. Trước hết là việc cổ võ PÂH. Không phải cứ giăng biểu ngữ và hát hò, theo kiểu Nhà Nước cổ động cho một công tác nào, mà là phải động tâm, động não, động viên cho sứ vụ này.
Tiếp đến là việc huấn luyện, đào tạo giáo dân thi hành sứ vụ. Phải có chuyên môn, kỹ thuật, hiểu tâm lý đối tượng mà mình tiếp cận để PÂH. Một phương pháp hiệu năng là dùng chứng nhân và chứng tá.
“Việc huấn luyện truyền giáo là công việc của Giáo Hội địa phương, được tiếp tay bởi các nhà truyền giáo và Tu Hội của họ, cũng như được tiếp tay bởi người đến từ các Giáo Hội trẻ. Công việc này không được coi như là một việc nổi nang bề ngoài mà là việc chính đối với đời sống Kitô hữu. Thậm chí đối với cả việc “tân truyền bá phúc âm hóa” nơi các xứ Kitô giáo thì đề tài về những việc truyền giáo cũng cho thấy là rất hữu ích: chứng từ của các nhà truyền giáo vẫn là một lời kêu gọi đối với cả thành phần tín hữu không hành đạo lẫn thành phần không tin đạo, chứng từ này truyền đạt các giá trị Kitô giáo. Bởi thế, các Giáo Hội riêng phải làm cho vấn đề phát động những việc truyền giáo thành yếu tố chính trong hoạt động mục vụ thông thường ở các giáo xứ, hội đoàn và nhóm hội, nhất là ở các nhóm giới trẻ” (CL. 83).
Cần hướng tâm hồn con người đến sự khao khát Thiên Chúa và ơn cứu độ, chứ không dừng lại ở những gì là vật chất, mang tính vụ lợi, theo kiểu “theo đạo có gạo mà ăn”, “đạo gạo”, “đạo viện trợ”: “Thật là không đúng khi trình bày một hình ảnh thiếu hụt về hoạt động truyền giáo, như thể nó chỉ hoàn toàn nhắm vào việc giúp đỡ kẻ nghèo, vào việc góp phần giải phóng kẻ bị đàn áp, vào việc đề cao phát triển hay bảo vệ quyền lợi của con người. Giáo Hội truyền giáo nhất định bao gồm cả những công việc hàng đầu này, thế nhưng, công việc chính yếu của Giáo Hội nằm ở chỗ khác, ở chỗ thành phần nghèo khổ đói khát Thiên Chúa, chứ không phải đói khát bánh ăn và tự do vậy thôi. Hoạt động truyền giáo trước hết phải làm chứng cho và loan truyền ơn cứu độ trong Chúa Kitô, cùng với việc thiết lập các Giáo Hội địa phương là nơi sau này trở thành phương tiện giải phóng đúng nghĩa” (CL. 83).
8. Hội nhập văn hóa và Phúc Âm Hóa. Một Thượng Hội Đồng Giám Mục đặc biệt về Châu Á đã được triệu tập. Châu Á là nơi có nhiều tôn giáo lớn, có nhiều truyền thống văn hóa lâu đời và khác biệt nhiều với các châu lục khác. Tông huấn “Giáo Hội tại Á Châu”, kết quả của Thượng Hội Đồng này, đã được Đức Gioan Phaolô II ban hành ngày 06.11.1999. Việc PÂH ở Á Châu có nhiều đòi hỏi đặc thù cho Giáo Hội Công giáo tại đây.
Cách cụ thể, cần huấn luyện mọi thành phần dân Chúa, từ chủng sinh, tu sĩ và cả giáo dân về Kinh Thánh, cử hành Phụng Vụ, sao cho thích nghi và hội nhập được với văn hóa và não trạng của người Á châu, để con người ở đó có thể chấp nhận niềm tin vào Thiên Chúa: “Hơn nữa, bởi vì việc hội nhập văn hóa Tin Mừng dính dáng đến toàn thể dân Chúa, vai trò người giáo dân có tầm quan trọng tột bậc. Chính họ là những người hơn ai hết được kêu gọi biến đổi xã hội, trong sự hợp tác với các giám mục, giáo sĩ và tu sĩ, bằng cách làm cho “tinh thần Đức Kitô” thâm nhập vào trong não trạng, tập quán, luật pháp và cấu trúc của thế giới trần tục nơi họ đang sống…Một sự hội nhập văn hóa rộng rãi hơn cho Tin Mừng, ở mọi cấp bậc xã hội tại Á Châu, phần lớn tùy thuộc vào sự đào tạo xứng hợp mà các Giáo Hội địa phương dành cho giáo dân” (EA. số 107).
9. Cộng đoàn cơ bản: Không thể bỏ qua một hình thái thích hợp cho sứ mạng PÂH, đó là cộng đoàn cơ bản. Đức Gioan Phaolô II trong Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu đề cao hình thái này, với điều kiện họ nối kết, hiệp thông với các chủ chăn và huấn quyền trong Giáo Hội: “Trong bối cảnh này, và theo kinh nghiệm mục vụ của mình, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh giá trị của những cộng đoàn Giáo Hội cơ bản như là một phương thức hiệu nghiệm để cổ võ sự hiệp thông và tham gia trong các Giáo xứ và Giáo phận, và như là một lực lượng đích thực cho việc rao giảng Tin Mừng” (EA. 132). Những nhóm nhỏ này giúp người tín hữu sống thành những cộng đoàn tin, cầu nguyện và yêu thương như các Kitô hữu thời đầu (x. Cv 2,44-47; 4,32-35). Các cộng đoàn này có mục đích là giúp đỡ các thành viên của mình sống Tin Mừng trong một tinh thần yêu thương huynh đệ và phục vụ, và do đó chúng là khởi điểm vững chắc để xây dựng một xã hội mới, một diễn tả của nền văn minh tình thương. Cùng với Thượng Hội Đồng, tôi khuyến khích Giáo Hội tại Á Châu, nơi nào có thể, thì xem những cộng đoàn cơ bản này như là một nét tích cực của hoạt động truyền giáo của Giáo Hội. Đồng thời, các cộng đoàn này chỉ có thể mang lại hiệu quả đích thực nếu -như Đức Phaolô VI viết- chúng hiệp nhất với Giáo Hội địa phương và Giáo Hội hoàn vũ, trong sự hiệp thông chân tình với các vị Chủ Chăn của Giáo Hội và với Huấn Quyền, biết dấn thân mở rộng việc truyền giáo và không theo chủ nghĩa biệt lập hay sự khai thác ý thức hệ (EA. 133). Sự hiện diện của những cộng đoàn nhỏ này không làm cho vô hiệu những thể chế và cơ cấu đã được thiết lập, vẫn còn cần thiết để Giáo Hội hoàn thành sứ vụ của mình.
“Thượng Hội Đồng cũng nhìn nhận vai trò của những phong trào canh tân, để xây dựng sự hiệp thông, để tạo điều kiện thuận lợi giúp có kinh nghiệm thân mật hơn với Thiên Chúa qua đức tin và các Bí Tích, và để cổ võ việc hoán cải đời sống”(EA. 134) (Trích trong “Giáo dân trong một số tài liệu của Giáo Hội”, tr.124-125).
10. Các Hội Đoàn Công giáo Tiến Hành: Sứ mạng loan báo Tin Mừng có thể mang lại nhiều hoa trái hơn khi được thực hiện vừa cá nhân vừa cộng đoàn, vì “hợp quần gây sức mạnh”. Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu nhìn nhận việc các hội đoàn CGTH và các phong trào canh tân đặc sủng tham gia vào sứ mạng này, và nhắc nhở các vị chủ chăn quan tâm hướng dẫn, đồng hành và khích lệ họ: “Thượng Hội Đồng cũng nhìn nhận vai trò của những phong trào canh tân, để xây dựng sự hiệp thông, để tạo điều kiện thuận lợi giúp có kinh nghiệm thân mật hơn với Thiên Chúa qua đức tin và các Bí Tích, và để cổ võ việc hoán cải đời sống (EA. 134). Trách nhiệm của các Chủ Chăn là hướng dẫn, đồng hành và khích lệ những nhóm đó để họ có thể hội nhập vào đời sống và sứ mạng của Giáo xứ và Giáo phận. Những ai dấn thân vào trong các hiệp hội và phong trào, phải trợ giúp Giáo Hội tại địa phương và đừng có coi mình như là những gì thay thế cho những cơ cấu Giáo phận và đời sống Giáo xứ. Sự hiệp thông lớn mạnh hơn khi các lãnh đạo địa phương của các phong trào này làm việc chung với các vị Chủ Chăn trong tinh thần bác ái vì lợi ích chung (x. 1 Cr 1,13).
Trên đây là một số điểm nổi bật trong các văn kiện của Giáo Hội về vai trò người tín hữu giáo dân trong việc thi hành sứ mạng PÂH. Từ những trích dẫn trên đây, chúng ta thử nhận định việc người giáo dân Việt Nam tham gia vào sứ mạng này như thế nào hiện nay.
II. NHẬN ĐỊNH VỀ VIỆC NGƯỜI GIÁO DÂN THAM GIA SỨ MẠNG PÂH TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
Nhận định chung là không lạc quan, nhưng cũng không bi quan. Có thể thấy rõ giáo dân Việt Nam ngày càng ý thức và tham gia vào sứ mạng này, tuy chưa đạt niềm mong đợi, nhưng đang đi lên. Giống như mùa xuân trở về theo nhịp tuần hoàn mỗi năm, không phải cách bất chợt, mà tiệm tiến dần dần.
1. Ý thức về sứ mạng PÂH: Chúng ta nhận thấy chủ ý của HĐGMVN qua các Thư Chung, Thư Mục Vụ từ trước đến nay, nhất là từ đầu Thiên niên kỷ thứ III, hòa với Giáo Hội toàn cầu, đáp ứng lời kêu gọi của các vị Cha Chung, luôn nhắc nhở Dân Chúa sứ mạng cao cả này. Tại các giáo phận, việc kêu gọi giáo dân tham gia sứ mạng này được thực hiện dưới nhiều hình thức: các Ủy ban cấp giáo phận, giáo xứ, các Hội đoàn Công giáo Tiến hành, các Hội Dòng có sứ mạng loan báo Tin Mừng được thành lập hay tái lập và hoạt động, có những nơi đẩy sứ mạng này thành cao trào trong những dịp mừng kỷ niệm 50 năm, 60 năm, 75 năm… vào những thời điểm của năm 2000, 2010, 2015, 2018…
Ý thức là một việc, thực hiện lại là một việc khác, nhiều khi muốn mà không làm được, như người ta thường nói “lực bất tòng tâm”, vì những trở ngại từ nhiều phía. Trở ngại lớn nhất như ta biết, đó là xã hội và Giáo Hội Việt Nam ở dưới chế độ Cộng sản vô thần, khống chế mọi hoạt động của Giáo Hội, trong đó có hoạt động PÂH, từ năm 1975 tại miền Nam, ngược lên năm 1954 tại miền Bắc, và nơi một số địa phương (như Hưng Hóa, Bắc Ninh…) phải tính từ 1945! Đó là thực tại lịch sử.
(Năm 2015, khi đặt chân đến huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên, một trong những tỉnh được gọi là “trắng” về tôn giáo, tôi thăm xã giao chính quyền huyện. Ông chủ tịch huyện đã nói thẳng: – “Các ông truyền đạo bất hợp pháp”. Tôi hỏi lại: – “Chúng tôi nào đã được đến đây, nào đã được gặp gỡ người dân, dù là người H’mông đang có đạo, thì làm sao bảo là chúng tôi truyền đạo được, còn đạo Công giáo được Hiến Pháp công nhận, sao lại gọi là bất hợp pháp”?!
Người Công giáo từ bao năm nay bị ngăn chặn tham gia các hoạt động xã hội, giáo dục, y tế, từ thiện…, nên dù muốn thực hiện sứ mạng PÂH trong lãnh vực trần thế cũng khó. Ở miền Bắc hiện vẫn còn sự khống chế này, khiến nhiều người có đạo muốn được làm một công việc gì trong xã hội thì phải bỏ đạo hoặc dấu diếm đức tin, rồi dần dà lâu ngày đi đến chỗ lơ là nguội lạnh. Chủ thuyết Cộng sản đã làm mất hoặc xói mòn đức tin của rất nhiều người công giáo!
Muốn thực thi sứ mạng PÂH trong lãnh vực thiêng liêng thuần tôn giáo cũng không phải dễ, bởi vì rất nhiều cộng đoàn giáo xứ, giáo họ, giáo điểm không được Nhà Nước nhìn nhận, không được phép hoạt động. Các linh mục, tu sĩ không được tự do hoạt động tôn giáo cho đến thời điểm gần đây!
Đấy là những khó khăn đến từ bên ngoài. Còn từ bên trong, ta cũng nhìn nhận thực tế này là rất nhiều giáo dân Việt Nam vẫn có tâm thức giữ đạo cho riêng mình, chưa quan tâm rao giảng Tin Mừng, giới thiệu đức tin cho đồng bào. Người ta chú trọng đến việc giữ đạo hình thức bên ngoài, mà thực chất bên trong thì chưa được quan tâm. Người nước ngoài khi đến Việt Nam thường bỡ ngỡ thán phục khi thấy các nhà thờ đầy giáo dân, các cuộc lễ được tổ chức hoành tráng, đông đảo người dự, mang tính lễ hội rầm rộ, qua trống kèn ầm ĩ, y phục lộng lẫy, rước xách long trọng. Tại nhiều nơi, việc xây dựng, tu bổ các thánh đường và cơ sở tôn giáo rất to lớn, tốn kém… còn kết quả của việc PÂH thì không là bao!
2. Gắn kết với Chúa: Đây là điều cốt lõi cho sứ vụ PÂH, như hình ảnh ngọn đèn chỉ sáng lên, tỏa hơi nóng khi được nối kết với nguồn điện. Sứ mạng PÂH của Giáo Hội tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu là người loan báo Tin Mừng đầu tiên, và chính Ngài là Tin Mừng của Chúa Cha, nên nhất thiết Giáo Hội, trong đó giáo dân là thành phần đông đảo nhất, phải gắn kết với Chúa. Khi sự gắn kết này bị cắt đứt hoặc lơ mơ thì không mong đem lại hoa trái gì. Ta phải nói gì về sự gắn kết này? Có một cách để nhận ra nó bền chặt hay hời hợt là nhìn vào hoa trái của nó. Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn cây nho và cành nho trong Tin Mừng Gioan 15,1-8: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Cành nào gắn chặt vào cây sẽ sinh nhiều hoa trái, còn cành nào lìa cây sẽ bị khô héo”. Cứ nhìn vào quả mà biết cây!
3. Lãnh vực để thực thi sứ mạng PÂH: thiêng liêng và trần thế.
Đúng là nơi người tín hữu giáo dân, dụ ngôn muối và ánh sáng có ý nghĩa và giá trị thực dụng nhất. Thật đáng ước mơ khi được sống trong một quốc gia tôn trọng các quyền con người; ngược lại, thật đáng buồn khi một quốc gia không tôn trọng các quyền tự do chính đáng của con người trong cuộc sống. Đây là vấn đề được đặt ra không chỉ ở bình diện quốc gia, mà còn ở bình diện quốc tế. Vì thế mà cần có Liên Hiệp Quốc để can thiệp, và các tổ chức quốc tế để lên tiếng đòi quyền lợi nhân danh những con người thuộc quốc gia đó, trong sự liên đới toàn cầu. Thực tế đáng buồn là tại quốc gia nào theo chế độ độc tài, đảng trị, các quyền căn bản của con người không thật sự được tôn trọng và đáp ứng, có chăng chỉ ở một mức độ nào đó!
Tại Hàn Quốc, người công giáo tham gia vào các lãnh vực trần thế, xã hội và chính trị một cách rất tích cực, vì thế mà đạt được những kết quả đáng kể trong công cuộc PÂH. Tại Việt Nam hiện nay, người công giáo vẫn bị hạn chế nhiều trong việc tham gia này, mặc dù rất muốn. Phải chăng vì thế mà công cuộc PÂH bị trì trệ?
Có lần tôi được tiếp xúc với một giám mục Thái Lan. Ngài cho biết số người theo đạo công giáo tại giáo phận của ngài rất ít, trong khi đó số linh mục, tu sĩ lại đông. Thế các vị ấy đảm trách những công việc gì? Mục vụ giáo xứ chăng? Ngài cho biết tại giáo phận của ngài, một số lớn các linh mục và tu sĩ hoạt động trong lãnh vực giáo dục, điều hành trường học công giáo các cấp, và các trường Công giáo ấy rất được tín nhiệm. Thái Lan là một nước tôn trọng quyền tự do tôn giáo, tuy Phật giáo là quốc giáo của họ.
Như trong phần trình bày giáo thuyết, chúng ta đã trích dẫn Tông huấn Christifideles Laici (số 2) (supra, trang 4) nhắc nhở cần giúp người tín hữu tránh thái cực thứ hai là cám dỗ “bào chữa cho sự tách biệt không thể biện minh giữa đức tin và đời sống, giữa việc đón nhận Tin Mừng và hoạt động cụ thể trong các lãnh vực trần thế khác nhau”. Nhận định của chúng tôi là người tín hữu ở Việt Nam đang lâm vào tình trạng này, đó là dửng dưng xa rời các thực tại trần thế để chỉ lo bảo vệ đức tin, không quan tâm đến việc đem Tin Mừng thấm nhập vào môi trường trần thế đang rất cần muối, men, ánh sáng của Chúa Kitô để được biến đổi. Sự dửng dưng của người kitô hữu trong vấn đề này cộng với tình trạng dửng dưng do ảnh hưởng của thuyết vô thần nơi anh em lương dân đối với niềm tin tôn giáo, khiến cho đạo Công giáo không có ảnh hưởng mạnh mẽ trong xã hội Việt Nam ngày nay.
4. Sự hợp tác giữa các thành phần dân Chúa trong sứ mạng PÂH: Phải chăng trong lãnh vực này, sự hợp tác còn ở mức độ lỏng lẻo, thiếu sự quan tâm đúng mức từ phía các vị chủ chăn, khiến cho hoạt động PÂH ít hiệu quả. Sự tôn trọng và phát huy quyền tham gia vào sứ mạng này của người giáo dân chưa được các chủ chăn lưu tâm. Các hội đoàn Công giáo Tiến hành dù được thiết lập và hoạt động, nhưng nếu thiếu sự chăm sóc, huấn luyện, đồng hành, hỗ trợ, thì cũng khó mà có kết quả; chưa kể tại nhiều nơi, các chủ chăn thờ ơ với sự hiện diện của các hội đoàn và những hoạt động của giáo dân, nại cớ phiền toái, không đi đến đâu, cũng không lo lắng để huấn luyện họ đi đúng đường hướng của Giáo Hội. Xin kể một câu chuyện: Tại một giáo xứ, giáo dân xin cha sở cho tái lập Hội Legio Mariae đã bị ngưng hoạt động từ lâu. Cha xứ trả lời: “Tại xứ của tôi chỉ có một Hội mà thôi, đó là Hội Thánh Đức Chúa Trời”! Cha xứ đã không làm, mà người giáo dân muốn làm, cha không cho. Có thể áp dụng Lời Chúa Giêsu ở đây chăng: “Các người khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người cũng không để họ vào” (Mt 23,13)? Giáo luật khoản 299,1 công nhận các tín hữu có quyền thành lập các Hiệp Hội, qua một sự hợp đồng riêng tư giữa họ với nhau nhằm những mục tiêu như phụng tự công cộng, đạo lý Kitô giáo, thực hành các việc tông đồ như truyền bá Phúc Âm, công tác đạo đức hoặc bác ái, thấm nhuần tinh thần Kitô giáo vào trật tự trần gian, tuy vẫn tôn trọng nhà chức trách
5. Chứng tá đời sống: Chúng ta đã biết trong phần Huấn quyền nói trên, người giáo dân bất kỳ là ai, ở lứa tuổi nào, trong vai trò nào… đều có thể là chứng nhân PÂH bằng đời sống rất thuận lợi, bất cứ ở đâu, lúc nào, và với ai. Đây là điều rất đáng khen ngợi và cổ vũ.
Giáo dân Việt Nam dù yếu kém về mặt giáo lý, không tự tin và mạnh dạn đủ để nói về đức tin của mình, nhưng họ đang sống đức tin ấy. Ta có thể chứng nghiệm điều ấy qua sự thực hành đạo rất đông đảo, làm xúc động nhiều người. Nhiều nơi và nhiều lúc, người công giáo Việt Nam đã quả cảm tuyên xưng đức tin, dù phải chịu bất công, thiệt thòi về mặt xã hội. Những anh em dân tộc thiểu số cũng nêu gương sáng gắn bó thiết tha với niềm tin, và quảng đại chịu nhiều khốn khó còn hơn người Kinh nữa.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn thấy hai điều nhức nhối này là: – nhiều người giữ đạo theo thói quen, giữ đạo vì truyền thống, hình thức…; và nhiều người có đạo, nhưng vì quyền lợi vật chất và địa vị xã hội, hoặc cầu an… đã đành tâm chối đạo, dấu diếm đức tin.
6. Liên đới: Càng ngày, ta càng thấy ý thức liên đới mạnh mẽ hơn giữa mọi người với nhau trong quyền lợi và nghĩa vụ, về phương diện tôn giáo cũng như xã hội. Tục ngữ có câu: “Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ”. Lấy ví dụ cụ thể: Trong Giáo Hội, linh mục xâm hại tình dục trẻ vị thành niên, thì những người có mối ràng buộc với nhau, như giám mục với linh mục, phải đồng trách nhiệm; trong lãnh vực thể thao, một giải thưởng được trao và chia sẻ đồng đều giữa các cầu thủ trong đội, chứ không phải kẻ ít người nhiều. Trong sứ mạng PÂH cũng vậy, mọi thành phần trong Giáo Hội, giáo phận hay giáo xứ, phải đồng chia sẻ sự liên đới và trách nhiệm với nhau. Kế hoạch thực hiện sứ mạng PÂH phải được mọi người liên đới chia sẻ và chịu trách nhiệm với nhau, chứ không có cảnh tự ý tự quyền và chịu trách nhiệm một mình.
Về điểm này, chúng ta phải nhìn nhận rằng tại Việt Nam từ xưa đến nay vẫn có não trạng đơn thương độc mã, một mình làm, một mình chịu. Người ta nhận xét rằng một người Việt Nam có thể giỏi giang, trổi vượt hơn chục người nước ngoài trong công việc cá nhân; nhưng chỉ cần vài người nước ngoài chung vai thích cánh làm việc tập thể thì bằng cả mấy chục người Việt Nam cộng lại! Não trạng cá nhân, cục bộ nơi người Việt Nam còn rất mạnh.
Nhận định về tính liên đới trong sứ mạng PÂH tại Việt Nam hiện nay không cho chúng ta sự lạc quan lắm. Lấy một trường hợp điển hình: Các Hội dòng địa phương hay quốc tế đang hiện diện tại Việt Nam mà có linh đạo hay hoạt động hướng đến sứ mạng PÂH thì rất đông, các tu sĩ cũng nhiều, nói lên Hội Dòng đó đáp ứng đúng nguyện vọng của các tu sĩ muốn dâng hiến cuộc đời cho công cuộc quan trọng này, nhưng rồi thực tế nhiều Hội Dòng chưa mạnh dạn gửi tu sĩ dấn thân vào sứ mạng này, mà hoạt động riêng rẽ, không liên kết với nhau. Cách đây hai năm, UBLBTM đã tổ chức một cuộc hội thảo với các Hội Dòng mang chủ đề: “Chung tay loan báo Tin Mừng đến vùng ngoại vi”, kêu gọi các Hội Dòng liên kết với nhau để thi hành sứ mạng này. Nhưng hiện nay, không thấy chuyển biến gì!
7. Cổ võ và huấn luyện sứ mạng PÂH cho giáo dân: Đây là một vấn đề nhức nhối. Phải nhận rằng cho đến nay, người ta thích trưng các biểu ngữ “Ra đi loan báo Tin Mừng”, “Hãy đi loan báo Tin Mừng khắp thế gian”, “đến vùng ngoại vi”…, rồi thôi. Việc huấn luyện người tín hữu để họ tham gia vào sứ mạng này với sự hiểu biết và ý thức cũng như tâm huyết… chưa được chú trọng mấy. Trong các chủng viện, môn Truyền Giáo Học (Missiologie) tuy có, nhưng mang tính lý thuyết và ít để ý đến bối cảnh đa văn hóa, đa tôn giáo của Á Châu. Các linh mục bằng lòng với công việc mục vụ cho người đang giữ đạo chứ chưa nhiệt huyết ra đi loan báo Tin Mừng cho người lương dân, hoặc cũng chưa nhiệt tâm đi tìm các chiên lạc, tân PÂH cho những người đang xa cách, hờ hững với niềm tin và thực hành đạo. Việc đào tạo người tín hữu giáo dân để tham gia sứ mạng này hầu như không có gì. Chưa thấy có trường đào tạo giáo dân về các môn Khoa học thánh (Học viện Công giáo mới hoạt động được ba năm, chủ yếu cho linh mục, tu sĩ, và một vài giáo dân! TTMV của tổng giáo phận Saigon có một số hoạt động nhằm đào tạo giáo dân…
Một câu chuyện điển hình: Tại một giáo xứ, trong cuộc họp Legio Mariae, một bà báo cáo công tác thăm lương dân. Thấy trên bàn thờ trong nhà có bát hương, ly nước, bà giẫm chân bẹt bẹt, chỉ vào bàn thờ mà nói: “Bây giờ mà còn thờ chi ba cái thứ này. Dẹp đi, rồi tôi dẫn đến nhà thờ xin theo đạo thờ Chúa muôn loài”! Chết thật cái cách loan báo Tin Mừng như thế này, chỉ vì không được huấn luyện!
8. Hội nhập văn hóa và PÂH. Như Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu đề nghị, không thể mong sứ mạng PÂH tại Việt Nam đem lại kết quả nếu không lưu ý đến vấn đề hội nhập văn hóa trong bối cảnh nước Việt Nam là một nước Á Châu, nơi giao thoa nhiều nền văn hóa như Trung Hoa, Ấn Độ, pha một chút ảnh hưởng từ Kampuchia, với ba tôn giáo lớn là Khổng-Lão-Phật đã cắm rễ lâu đời tại Việt Nam, với các tập tục mang tính tín ngưỡng dân gian, với lòng tôn kính tổ tiên sâu nặng nơi người Việt Nam. Chúng ta không được quên rằng cuộc tranh luận về nghi lễ ở Trung Hoa (la querelle des rites) thờ kính Khổng Tử và tổ tiên đã gây bao thiệt hại cho việc loan báo Tin mừng ở Trung Hoa lẫn Việt Nam cho đến gần đây. HĐGMVN, từ năm 1974, đã cho phép người công giáo Việt Nam được thực hành và chủ động tham dự một số nghi lễ tôn kính tổ tiên, vì coi đó là những việc làm hợp với chữ Hiếu, để tỏ lòng tôn kính, tưởng nhớ, biết ơn các bậc sinh thành. Việc hội nhập văn hóa là việc vẫn còn phải được tiếp tục nghiên cứu, đào sâu và thích nghi tại Việt Nam. Sắp tới, Ủy ban Văn hóa sẽ đệ trình HĐGMVN để xin cho áp dụng một số thích nghi nữa trong phụng vụ liên quan đến tang lễ và cưới hỏi.
Chúng ta nhận thấy tại Việt Nam, nhiều giáo dân, kể cả linh mục, tu sĩ, vẫn lúng túng không biết phải ứng xử thế nào khi đối diện với những trường hợp nghi vấn về quan niệm và niềm tin tín ngưỡng trong một số lãnh vực như quan hôn tang tế, sợ va vấp vào mê tín dị đoan, tôn thờ ngẫu tượng, làm mất thiện cảm với lương dân và các tôn giáo bạn… Vì thế, các vị chủ chăn phải hướng dẫn, huấn luyện dân Chúa hầu tránh những đổ vỡ, mất mát.
Từ ít lâu nay, việc đối thoại liên tôn tại Việt Nam có nhiều nỗ lực tích cực từ phía công giáo, nhằm xích lại gần với các tôn giáo bạn, nói lên thiện ý tôn trọng, hòa đồng, tránh hiểu lầm đố kỵ, nhưng phải nhận rằng kết quả còn rất nhỏ bé và vẫn còn khoảng cách rất lớn với các tôn giáo bạn.
9. Cộng đoàn cơ bản: Tại Việt Nam, có những cộng đoàn cơ bản và phong trào canh tân đoàn sủng đang hiện diện hoạt động, tuy âm thầm nhưng tích cực, như các nhóm gia đình trẻ, nhằm giúp sống đức tin, bảo vệ hôn nhân và gia đình nhờ nối kết tình thân. Những cộng đoàn này cần được cổ vũ và phát triển. Chỉ cần lưu ý đến điều mà Đức Gioan Phaolô II đã nói lên (supra, trang 7), là giúp các cộng đoàn này hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ và địa phương, với hàng giáo phẩm, không đối lập hay tách rời, bất chấp hay coi thường các cơ cấu Giáo Hội đã có.
10. Hội đoàn CGTH: Đây là một điểm son của Giáo Hội Việt Nam, các hội đoàn là môi trường để các tín hữu tham gia sứ mạng PÂH cách rõ ràng nhất. Như một vườn trăm hoa đua nở, các phong trào CGTH tại Việt Nam rất đa diện, từ những hội đoàn mang tính thuần túy đạo đức, đến các hội đoàn mang tính xã hội, nghề nghiệp, bác ái từ thiện, và nổi bật là tính truyền giáo. Mọi lứa tuổi cũng có hội đoàn riêng, từ thiếu nhi, đến thanh niên, giới gia trưởng, hiền mẫu, lão ông lão bà… Nói chung các hội đoàn được giáo dân đón nhận và sẵn sàng tham gia. Việc tổ chức cơ cấu và điều hành hội đoàn được các chủ chăn quan tâm. Việc sinh hoạt hội đoàn theo nội quy được tuân giữ. Phải nhìn nhận rằng các hội đoàn đã góp công rất nhiều trong việc thực thi sứ mạng PÂH.
Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng một số hội đoàn còn hạn chế ở chỗ nặng hình thức bên ngoài, mới chú trọng đến phương diện đạo đức qua việc kinh kệ, lễ lạy, mà chưa sống đúng linh đạo của hội đoàn, nhất là mở ra với tình bác ái, hiệp thông, sứ vụ. Việc huấn luyện đào tạo các hội viên vẫn chưa được thật sự quan tâm, chưa kể một số hội đoàn xem ra phải tự lực tự cường mà chưa được quan tâm đúng mức, đến nỗi sống dở, chết dở, vì thế mà việc thực thi sứ mạng PÂH vẫn chưa có nhiều kết quả đáng kể.
Trong chiều hướng canh tân, nối kết và khích lệ các hội đoàn CGTH tham gia vào sứ mạng này, UBLBTM đã tổ chức một cuộc Hội thảo năm 2017 tại Tòa giám mục Xuân Lộc với chủ đề “Các Hội đoàn CGTH và sứ mạng Loan báo Tin Mừng tại Việt Nam hiện nay”.
III. NHỮNG ĐỀ XUẤT ĐỂ VIỆC THAM GIA SỨ MẠNG NÀY KẾT QUẢ HƠN
Trước sứ mạng quan trọng Chúa trao, ai nấy đều mong muốn làm sao để mang lại nhiều hoa quả tốt đẹp cho Chúa, như Ngài đã kết luận ở dụ ngôn gieo giống: “Hạt sinh ra ba mươi, hạt sáu mươi, hạt một trăm” (Mc 4,20).
Tôi nghĩ cần làm một số việc sau đây để đạt được kết quả.
1. Dấn thân: Làm sao để mọi giáo dân ý thức đây là sứ mạng của họ, là công việc, là trách nhiệm của họ, không được thoái thác, ù lì, cầu an, mà phải sẵn sàng nhập cuộc. Hãy xem anh em Tin Lành, họ mạnh dạn loan báo Tin Mừng. Tôi có dịp nói chuyện với một phụ nữ là mẹ gia đình, chị tự tin trích Kinh Thánh làu làu để làm chứng cho điều mình nói. Ở giáo phận Hưng Hóa có những anh chị em H’mông, họ không có học thức gì, không giữ vai trò gì trong cộng đoàn, nhưng họ dấn thân giới thiệu đạo cho đồng bào, biết bao người đã biết Chúa nhờ sự dấn thân của những anh chị em này. Có những nơi nhiều chục năm không có linh mục, cộng đoàn, bí tích, nhà nguyện, thế mà các người H’mông ở đó vẫn giữ được đạo chứ không bị mất.
Trong diễn từ triều yết Đức Thánh Cha Phanxicô dịp Ad Limina 2018, ĐTGM Nguyễn Chí Linh, Chủ tịch HĐGMVN, đã trình bày: “Sau hàng nửa thế kỷ phải trải qua những giờ phút đầy thử thách của cuộc chiến tranh ý thức hệ, giờ đây chúng con đang phải đương đầu với một cuộc chiến mới: cuộc chiến chống lại tinh thần cầu an. Những cuộc bách hại nếu đã tôi luyện đức tin của chúng con thì về phương diện nhân loại, cũng khiến chúng con rơi vào tình trạng thủ thân khép kín. Vì thế mà từ khi chiến tranh chấm dứt năm 1975, con số bảy triệu người Kitô hữu tại Việt Nam hầu như không hề gia tăng”.
2. Nhiệt Huyết và Niềm Vui: Làm sao hun đúc nhiệt huyết PÂH nơi người tín hữu. Đây là yếu tố quan trọng bậc nhất, vì thiếu lửa, cả đống củi cũng vô ích, không rực cháy, tỏa nóng, chiếu sáng. Nhiệt huyết PÂH là “hồn tông đồ”. Sau đó là niềm vui. Chúng ta phải vui vẻ loan báo Tin Mừng. Đức Thánh Cha Phanxicô nói nhiều về nhiệt huyết và niềm vui này: “Chớ gì thế giới của thời đại chúng ta, một thế giới đang kiếm tìm, khi thì trong lo âu, khi thì trong hy vọng, có thể nhận được tin mừng không phải từ những người rao giảng rầu rĩ, chán nản, mất kiên nhẫn hay lo âu, nhưng từ những thừa tác viên Tin Mừng đang sống một cuộc đời đầy nhiệt huyết, những người trước đó đã nhận được niềm vui của Đức Kitô” (EG. 6).
“Đức Thánh Cha Phanxicô khuyên nhủ chúng ta hãy chia sẻ thực tại về tình yêu và Lòng Thương Xót này với nhiệt tình và niềm vui, bắt đầu từ nhà của mình, giữa các phần tử trong gia đình của mình, trong lối xóm của mình, trong các thành phố và thị trấn của mình, trong khắp giáo phận và ở mọi nơi. Hãy tưởng tượng xem giáo phận của chúng ta sẽ đẹp thế nào, Hội Thánh nói chung sẽ đẹp đẽ ra sao nếu nhiệt tình và niềm vui này bùng nổ. Tôi không đề cập đến một nhiệt tình thiếu thực tế hay niềm vui đạo đức, nhưng một nhiệt tình và niềm vui dẫn chúng ta đến sứ mệnh, trở thành những nhà truyền giáo” (Đức cha Michael Mulvey, Giám mục Giáo phận Corpus Christi, Texas, trong bài “Tất cả phải trở thành những môn đệ truyền giáo”. Phạm Xuân Khôi dịch, nguồn Vietcatholic, ngày 9.7.2017).
3. Cần huấn luyện, đào tạo giáo dân để PÂH: Người giáo dân Việt Nam hiện nay mới chỉ học và hiểu giáo lý sơ sài khi họ còn nhỏ, để Rước Lễ lần đầu và Thêm Sức. Khi lập gia đình, họ học thêm giáo lý hôn nhân. Rồi thôi. May ra có thêm giáo lý Thánh Kinh cho các em cấp III. Như thế thì làm sao giáo dân xác tín và mạnh dạn rao giảng Tin Mừng. Không có liềm thì làm sao gặt lúa! Giáo dân Việt Nam ít được trang bị vốn liếng giáo lý. Cần đầu tư nhiều vào lãnh vực này, hơn là đầu tư vào các lãnh vực xây dựng cơ sở vật chất hay tổ chức lễ lạc, kỷ niệm… mới phải!
Tổng giáo phận Saigon, vào thời điểm 2004, đã đề ra sáng kiến mỗi tín hữu là một giáo lý viên, mọi tín hữu đều được học giáo lý. Sau đó, khi có người xin học đạo, người này được giao phó cho một tín hữu tình nguyện. Người tín hữu này vừa hướng dẫn giáo lý, vừa đồng hành và là người đỡ đầu của người dự tòng. Một sáng kiến hay, nên nỗ lực thực hiện.
4. Cần có những nhóm tín hữu, gia đình làm công tác PÂH chuyên biệt. Đây là phương cách thực hành của phong trào Tân Dự Tòng. Hàng năm, Đức Thánh Cha Phanxicô sai các gia đình trong phong trào này đi khắp thế giới. Họ sẵn sàng đến bất cứ nơi nào, sống bình thường như mọi gia đình công giáo khác, và thi hành sứ mạng PÂH bằng chứng tá đời sống kitô hữu. Điều này thích hợp tại những nơi – vd các buôn làng dân tộc thiểu số – chưa có linh mục và cộng đoàn, chưa có nhà thờ và sinh hoạt… Không ai rao giảng Tin Mừng thuận lợi cho người dân tộc bằng người dân tộc. Trong một cuộc hội thảo về PÂH quốc tế, một đại biểu Châu Phi kể rằng khi muốn PÂH một nơi nào, họ gửi đến đó một đôi vợ chồng, chứ không phải một linh mục, ngụ ý đôi vợ chồng sẽ dọn đường tiền rao giảng bằng chứng tá đời sống công giáo của mình, rồi sau đó mới cần đến linh mục để rao giảng và cử hành bí tích.
Chúng ta thấy rằng cho đến nay, người tín hữu vẫn chưa ý thức đủ, cũng chưa tham gia mạnh vào sứ mạng này, một phần có lẽ tại các vị chủ chăn chưa biết vận dụng nguồn nhân lực này, chưa tín nhiệm đủ để mời họ cộng tác vào sứ mạng này. Chúng ta đã để phí phạm một nguồn lực quý báu và cần thiết.
Tại giáo phận Xuân Lộc, cha Đaminh Trần Xuân Thảo đã thành lập và đào tạo nhóm Tác Viên Tin Mừng. Những tổ hay nhóm này đi vào các thôn xóm loan báo Tin Mừng cho đồng bào. Trong cuộc hội thảo này, chúng ta sẽ được nghe cha Thảo giới thiệu về nhóm Tác Viên Tin Mừng này. Thiết tưởng nên nhân rộng mô hình này.
– Đáp ứng lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và Phanxicô về việc vận dụng những phương pháp mới, cách trình bày mới cho công cuộc Tân PÂH, chúng ta nên biết ứng dụng những tiến bộ của khoa học công nghệ thông tin vào các trang mạng, từ cấp toàn quốc, giáo phận, giáo xứ, hội dòng, đoàn thể, đến các trang mạng xã hội cá nhân (facebook, tweeter, instagram…). Hiện nay, những phương tiện này rất nhiều, phổ biến, ở trong tầm tay, chỉ có điều là chúng ta có biết sử dụng không, cũng như có thu hút độc giả không? Đức Thánh Cha Phanxicô đã làm gương, khi ngài cũng có tweeter, instagram có bao nhiêu triệu người theo dõi, hàng tuần ngài cho thu hình đưa lên mạng internet toàn cầu.
5. Hợp tác: Sứ mạng PÂH, nếu muốn có kết quả, cần thực hiện trong mối liên kết, như trên đây đã trình bày. UBLBTM nhận thấy sự nối kết giữa Ủy ban và các Ban LBTM giáo phận, dòng tu và hội đoàn… còn lỏng lẻo. Đã hẳn trách nhiệm của Ủy Ban là đề ra đường lối, phổ biến văn kiện, cổ vũ và phối kết các hoạt động PÂH, giúp các khóa huấn luyện theo nhu cầu các nơi, còn thì mỗi giáo phận, dòng tu, hội đoàn có hoàn cảnh, điều kiện, sáng kiến riêng trong việc PÂH. Ủy ban ước mong có sự chia sẻ qua lại, hợp tác hỗ trợ, điều phối nhằm đem lại nhiều kết quả hơn…
6. Triển khai kết quả của Hội thảo: Sau cuộc hội thảo, ai cũng mong muốn hoa trái của nó sẽ được triển nở. Điều này mời gọi mỗi tham dự viên, từ quý cha trưởng ban LBTM giáo phận đến quý đại biểu các hội dòng và hội đoàn CGTH tìm cách phổ biến và triển khai những suy tư, quyết định của cuộc hội thảo. Nếu sau cuộc hội thảo, mọi sự rơi vào quên lãng, không được phổ biến và áp dụng, thì thật là đáng tiếc.
KẾT LUẬN
Kính thưa quý tham dự viên,
Chúng tôi cảm kích và trân trọng sự hiện diện của quý vị tại cuộc hội thảo này. Nó nói lên nhiệt tâm muốn góp phần cho cuộc hội thảo nói riêng, và cho sứ mạng PÂH nói chung tại quê hương đất nước Việt Nam, được sản sinh những hoa trái tốt đẹp cho Chúa, mang Tin Mừng cứu độ cho anh chị em đồng bào chúng ta. Chúng tôi chân thành cám ơn quý vị.
Bài thuyết trình của tôi chắc chắn chưa trình bày cặn kẽ và đầy đủ những điều cần phải nhận định về sứ mạng cao cả này.
Bên cạnh việc lắng nghe các thuyết trình viên chia sẻ, trao đổi những góc nhìn khác xoay quanh đề tài, quý vị có thể góp phần của mình qua các suy tư, gợi ý, đề xuất cho UBLBTM chúng tôi. Chúng tôi chân thành đón nhận mọi ý kiến đóng góp, sau đó đúc kết thành bản nhận định, và trình bày với HĐGMVN trong khóa họp vào cuối tháng 9 này.
Giờ đây, xin mọi người cùng khẩn cầu sự phù trợ của Đức Mẹ La Vang: “Ngôi Sao của công cuộc Tân Phúc Âm Hóa”, của các Thánh Tử Đạo Việt Nam là cha ông và chứng nhân đức Tin, để chúng ta được mạnh dạn thi hành sứ mạng PÂH tại Quê Hương Đất Nước Việt Nam.
TTMV.TGP Huế, ngày 03.9.2018
+Anphong Nguyễn Hữu Long
Giám mục Phụ tá Hưng Hóa
Chủ tịch UBLBTM/HĐGMVN
Nguồn: Giáo phận Hưng Hóa
[1] Chúng tôi đề nghị dùng từ “Phúc Âm Hóa” thay cho từ “Loan báo Tin Mừng” để chỉ sứ mạng này. Từ “loan báo Tin Mừng” chỉ nói lên được một khía cạnh là rao giảng Tin Mừng cho muôn dân, còn từ “Phúc Âm Hóa” hàm ý đem Tin Mừng như men, như muối thấm nhuần vào thế giới, vào cuộc sống mọi người, mọi thực tại trần thế, theo sắc lệnh Tông đồ giáo dân nói ở đây. Tên của Bộ đặc trách sứ mạng này trước đây được gọi là “Sacra Congregatio de Propaganda Fide” (Bộ Truyền Bá Đức Tin hay Bộ Truyền Giáo), bây giờ gọi là “Congregatio pro Gentium Evangelizatione” (Bộ Phúc Âm Hóa Các Dân Tộc).