Lm. Phêrô Nguyễn Đức Vinh, SVD
Chị Maria thân mến,
Em phải viết thư cho chị.[1] Bởi vì chuyện đời chị đeo bám em từ lâu. Cứ mãi quẩn quanh bên em. Nhưng thật tình mà nói: em biết rất ít về chị. Nhưng cái chút ít đó lại là rất quan trọng: Chị là người đầu tiên gặp gỡ Đức Giêsu sau khi Người sống lại từ cõi chết. Chị là người đầu tiên được mặc khải về chiến thắng sự chết bằng tình yêu và sự sống. Đó là những gì còn làm rung động con người thời nay.
Chị khó tin được rằng ở phương Tây, chị là đề tài cho nhiều cuộc bàn cãi và có lắm người muốn biết về chị. Lí do là những tranh luận về các cuốn tiểu thuyết được viết về chị. Nhất là khi chị được trình bày trong đó như là người tình hay là vợ của Đức Giêsu, và rằng các hậu duệ của chị vẫn sống đến ngày nay.
Đó đúng là những câu chuyện hấp dẫn đưa chị vào dư luận. Riêng em nhận thấy việc thiên hạ bàn về chị là ổn. Bởi vì em nghĩ chị là một nhân chứng quan trọng cho phong trào Giêsu thời đó. Tất nhiên, em tự hỏi rằng không biết hình ảnh của chị như được mô tả trong các cuộc bàn cãi, có chạm đến cái cốt lõi hay không. Chính vì thế em muốn dành giờ để nhìn thật kỹ chị và Đức Giêsu một lần. Cụ thể là đọc lại trong Kinh Thánh về tương quan giữa chị và Thầy Giêsu.
Trước hết, cái tên „Maria Magdalena“ của chị cho thấy một liên hệ thiêng liêng sâu đậm với Ngài, vì Mirjam (tiếng Hibri) có nghĩa là „người yêu, thiên ân, dồi dào, đắng cay“. Trong các nguồn xưa nhất em không tìm thấy nhiều thông tin, nhưng có điều này: Chị đã làm quen với Đức Giêsu khi Ngài chữa lành chị khỏi bảy quỷ, như được kể lại trong Tin Mừng Luca. Và đây chắc hẳn là một biến chuyển có ảnh hưởng lớn trong đời chị.
Đức Giêsu ban cho chị một đời sống mới vào lúc chị lâm bịnh nặng. Và không chỉ là một đời hết bịnh tật, mà đó cũng là một cuộc đổi đời. Vì từ đó chị đã đồng hành Đức Giêsu, cùng với các anh chị em khác. Chị bước theo Đức Giêsu, phục vụ Ngài như Ngài đã phục vụ các anh chị em.
Trong các Tin Mừng em ghi nhận được dư âm, vang vọng lại từ cuộc bắt đầu của những người mạo muội thử một bước đường mới. Từ nhiều câu chuyện em biết rằng chị và các môn đệ khác, trước hết là Đức Giêsu, đã vượt qua nhiều điều cấm kỵ, có khi đã lách luật để có thể gần gũi với con người. Trợ giúp con người trong mọi hoàn cảnh sống, tôn trọng tất cả mọi người, nam nữ lão ấu, người khỏe mạnh và kẻ yếu đau.
Chị và Đức Giêsu cũng đã gần gũi nhau. Cùng với những người khác chị đã đứng xa xa thập tự theo lời thánh sử Máccô, hay là đã đứng thật gần như thánh sử Gioan tường trình lại. Chị đã có mặt ở đó, dưới chân cây thập tự, trong khi hầu hết các môn đệ, các anh chị khác đã chạy trốn vì sợ liên lụy. Sợ rằng người ta cũng bắt bớ, tra tấn và đóng đinh họ, vì là người thân người nhà của Đức Giêsu. Quân Rôma thời đó không chút xót thương với bất cứ ai và họ có tiếng là khá tàn ác.
Không những thế, chị đã tìm đến mộ Ngài vào ngày sau đó. Có lẽ chị đã bất chấp mọi sự, vì đã quá đau đớn và tuyệt vọng trước những gì xảy đến với Đức Giêsu. Nhưng em cũng có thể hình dung được rằng: Tình yêu chị dành cho Thầy khiến chị không quản ngại một điều gì cả. Cả cái chết cũng không là một sự đe dọa gây sợ hãi với chị lúc đó. Chị sẵn sàng chịu mọi sự vì tình yêu dành cho người-chịu-đóng-đinh. Là phụ nữ chúng ta mới cảm nhận sâu đậm và thấu hiểu được điều này. Đây đúng là chuyện con tim.
Ấn tượng nhất với em là việc chị đã không lùi bước chùn chân trong giờ phút đau thương khốn khó nhất. Trung thành một mực. Chị đã nhìn thật lâu vào trong mồ trống, khi các môn đệ khác, cả Phêrô, đã quay trở về từ lâu. Và nhờ vậy, chị đã trở nên chứng nhân cho cái chết nhục hình và là nhân chứng đầu tiên cho thực tế, rằng cái chết không thể nói lời cuối cùng.
Qua Tin Mừng Gioan em cảm nhận được điều chị đã trải qua, khi chị tìm thấy ngôi mộ trống vào ngày thứ ba. Em nghĩ rằng trong thực tế chị đã khóc nhiều hơn là Tin Mừng tường trình lại. Một thiên thần đã hỏi chị tại sao chị khóc? Chị nói rằng họ đã lấy mất xác Thầy, và chị không biết Ngài hiện ở đâu. Và rồi chị quay người lại và nhìn thấy Đức Giêsu. Nhưng chị đã không nhận ra Ngài. Khóc mù cả mắt thì còn nhìn thấy gì! Cả Ngài cũng hỏi chị tại sao chị khóc. Cho rằng đó là người làm vườn, chị lại hỏi Chúa ở nơi nào…
Rồi Ngài nói với chị: „Maria“. Và chị nhận ra Ngài và nói: “Rápbuni!” – là tiếng Hibri và có nghĩa là: „Rabbi của con – Thầy của con“. Ngài nói với chị: Đừng giữ Thầy lại, nhưng đi kể lại mọi sự cho các anh chị em khác. Và chị đã kể lại. Nếu không, em chẳng biết và không thể tiếp tục loan truyền sứ điệp phục sinh và niềm tin Kitô ngày nay.
Chị đã bắt đầu bằng việc ngoảnh mặt khỏi ngôi mộ trống. Quay hướng từ cái chết và sự tuyệt vọng và nhìn về sự sống, nhìn vào tương lai. Chị đã „nhìn thấy Chúa“, hay dịch thoáng thì nghe vậy: „Chị đã nhìn thấy Đức Giêsu Kitô trong Thiên Chúa“. Đây là khởi điểm cho phong trào Giêsu. Nhưng rõ ràng lúc ban đầu chị đã không tìm thấy nhiều người tin vào sứ điệp này. Tin Mừng Luca tường thuật lại rằng các tông đồ cho những điều chị kể là chuyện vớ vẩn, nên họ chẳng thèm tin.
Chị Maria thân mến,
chị đã có một liên hệ gần gũi với Đức Giêsu. Mọi sự hòa hợp ở trong tương quan đó. Câu hỏi về liên hệ cụ thể như thế nào với Thầy là bí mật của chị và Ngài. Không có gì được ghi lại trong Tin Mừng. Vì hình như tác giả không coi đó là việc hệ trọng, đáng để ghi lại. Em biết từ các nguồn thông tin khác, rằng các Rabbi Do-thái thời đó hầu hết đều lập gia đình. Cho nên em không gặp khó khăn nếu có ai nói rằng Rabbi Giêsu đã không sống khác. Đối với em, điều này không ảnh hưởng gì đến sứ điệp và sứ vụ cứu độ giải thoát của Ngài.
Chị Maria, điều làm em băn khoăn nghĩ ngợi là những gì người ta đã làm với chị trong truyền thống. Điều lạ kỳ mà em nhận thấy là sau cuộc gặp gỡ với Đấng-Phục-sinh, thì chị không còn xuất hiện trong Kinh Thánh nữa. Không còn đoạn nào nhắc đến chị. Không ở Galilê, khi các môn đệ khác gặp lại Đấng-Phục-sinh. Không ở Emmau. Không vào ngày lễ Lên trời và cũng không vào dịp lễ Hiện xuống.
Em thấy làm lạ vì không tìm thấy tên chị, khi tông đồ Phaolô nêu danh sách các nhân chứng của Phục sinh (1 Côrintô 15). Chị đã có mặt khi Đức Giêsu sống lại, nếu em tin vào những gì được tường trình trong các Tin Mừng. Điều gì đã xảy ra?
Chị và Phêrô là những người lãnh đạo trong phong trào Giêsu thời đó. Cả hai đã hoạt động trong cộng đoàn tiên khởi, đã làm chứng cho niềm tin, đã chữa lành và sống yêu thương nhau. Nhưng thực tế là rất sớm, như các sách Tin Mừng không được nhận vào Quy điển tường thuật, đã có những xung đột do cạnh tranh giữa hai phái, nam và nữ.
„Đấng-Cứu-độ chẳng lẽ đã bí mật nói chuyện – mà không cho chúng ta biết – với một phụ nữ? Chẳng lẽ chúng ta cần sám hối và nghe theo bà? “Đây là lời than trách của một Phêrô ganh tị được ghi lại trong „Tin Mừng của Maria Magdalena“. Nỗi sợ hãi này của các ông đã để lại dấu vết trong Giáo hội, trong khi từ thuở nguyên sơ thì đầy thân thiện với phụ nữ, không có sự phân biệt hay kỳ thị.
Các Tin Mừng còn tường thuật về chị, nhưng các nguồn khác phủ nhận chị. Về sau, người ta sẽ nhớ chị như một phụ nữ tai tiếng được chữa lành; ít người sẽ nhớ chị như là chứng nhân đầu tiên cho sự Phục sinh của Đức Kitô. Chị có muốn biết nguyên do cho chuyển biến đó không?
Chị đã được kể lại qua nhiều truyền thuyết với thời gian. Nhưng đó là một câu chuyện khác. Thực tế là với giòng thời gian, chị đã bị lẫn lộn với các phụ nữ vô danh khác trong Kinh Thánh[2]. Người ta trình bày chị như là một người phụ nữ tội lỗi sám hối, hay như một người ăn năn đền tội. Mà tội lỗi ở đây chỉ ám chỉ đến tình dục, khác với lối hiểu của Kinh Thánh. Một Giáo hội với vị thế ưu đãi của „người nam“ cần chị trong vai trò này; cũng là để hợp thức hóa sự loại trừ phụ nữ và sinh dục trong đó. Maria Magdalena trở thành biểu tượng cho người nữ sa ngã hư hỏng.
Trong hội họa Tây phương, người ta đã để cho óc tượng tượng hoạt động theo hướng này, và đã minh họa Maria Magdalena với áo xống hở hang, hở ngực và tóc thề xỏa dài, có khi quỳ dưới chân Đức Giêsu. Không còn có chỗ cho chị, một người phụ nữ mạnh mẽ, không bị trói buộc bởi gia đình. Các Tin Mừng tường thuật về chị không có liên hệ với người khác: không đàn ông lo lắng cho chị, không cha hay anh chị em. Sự tự lập này đã trở nên mối hại cho chị. Em tự hỏi mình ngày nay, tại sao không có những người đàn ông tội lỗi lớn trong truyền thống? Không có tông đồ nào, thánh nào đóng vai của chị cả!
Sự hứng khởi và nhiệt huyết buổi ban đầu của phong trào Giêsu không có chỗ cho tham vọng quyền lực, phân biệt vai trò và gom góp sở hữu. Những đề tài này không được để ý đến. Mãi đến khi ngày quang lâm của Đức Giêsu đã không đến nhanh như được hi vọng và chờ đợi, người ta bắt đầu lo việc an cư và bắt đầu thiết lập các cơ cấu, hình thức, qui luật. Các trật tự và phẩm trật của thế giới xung quanh trở lại. Sự bình đẳng được loại trừ dần trong các cộng đoàn tiên khởi, và phụ nữ bị đẩy về lại lãnh vực nội trợ.
Chị Maria Magdala, nếu giải thích chuyện đời chị trong giòng thời gian thì nghe như thế. Dù vậy, em vẫn cảm thấy khó chịu và bất lực, có khi nổi nóng về sự đổi thay theo chiều hướng này. Em quan sát và nhận ra rằng ngày nay phụ nữ vẫn bị hạ thấp công khai, không chỉ ở đây mà khắp nơi trên thế giới, kể cả ở những nước được cho là văn minh. Họ bị tước các quyền lợi dù được ghi trong Hiến pháp và trên các văn bản, nói rằng họ cần phải được đối xử bình đẳng.
Nhưng thật lòng mà nói, đây là một đòi hỏi nghe quá đáng trong một nền văn hóa, nơi đàn ông được năm thê bảy thiếp và vì vậy các lỗi lầm của họ được cho qua nhanh, trong khi cũng một lỗi lầm nơi người phụ nữ thì được tô đậm và nhắc lại lâu ngày. Chuyện người phụ nữ ngoại tình mà Tin Mừng Gioan tường trình lại là một thí dụ điển hình còn mang tính thời sự.
Nhưng câu chuyện cũng cho thấy: cũng có ông phản ứng nhạy bén, sẵn sàng chỉnh sửa lối cảm nhận và suy nghĩ đã thành nếp mòn. Những người dám nhìn khác và nhận định khác. Em thật vui trong lòng và ghi nhận những đổi thay nhỏ to, là khi các ông bắt đầu học lối suy của Rabbi Giêsu. Và những con người bị tước hết quyền lợi bắt đầu ý thức, và can đảm cất tiếng nói về sứ vụ của mình.
Chị cũng vậy: chị đã loan báo tin vui Phục sinh, mặc dù lúc đầu không ai chịu tin chị cả. Chị đã cảm nhận được sứ điệp này trong mình và đã đón nhận sức mạnh từ đó. Em nghĩ Thiên Chúa hành động trong sức mạnh của Thần Khí cũng giống như vậy. Người củng cố, động viên, giải thoát, chữa lành, ủy quyền để chúng ta sống dồi dào hơn.
Chị Maria, từ 2016 Lịch Phụng vụ Công giáo đã nâng chị lên hàng Tông đồ, và mừng kính chị như vậy vào ngày 22 tháng bảy. Thay đổi này xảy ra theo gợi ý của Giáo hoàng Phanxicô. „Apostola Apostolorum“ nói rằng chị được nâng lên ngang hàng với 12 vị Tông đồ khác; chị chính thức là „Nữ tông đồ“ duy nhất giữa các „Nam tông đồ“! Danh xưng này đã được Thánh Hippôlytô thành Rôma (170-236) đặt cho chị, vì chị là người đầu tiên đã mang tin Phục sinh cho các môn đệ khác.
Đây là một cú địa chấn lớn mà những rung động của nó chưa thực sự được các tín hữu ghi nhận cách thích đáng. Chị không còn được nhìn như là một người có quá khứ tai tiếng, một kỵ nữ giữa các phụ nữ theo Đức Giêsu, mà trước hết là một Nữ Tông đồ như được các Tin Mừng tường thuật lại.
Chị Maria thân mến,
cả khi chị không thể trả lời cho em, cả khi em không biết thêm gì hơn về đời chị, thì sức mạnh Thần Khí liên kết chúng ta, làm cho chúng ta trở nên chị em trong Đức Giêsu Kitô, thành chị em cùng với các anh chị em khác, những người sẵn sàng đứng lên bênh vực, bảo vệ sự sống và sự bình đẳng của mọi người.
Em của Chị.
—————————————–
[1] Phác họa theo: Clara Moser Brassel, Brief an Maria Magdalena.
[2] Giáo hoàng Gregor I (590-604) là người đã đồng hóa Maria Magdalena với người phụ nữ tội lỗi vô danh trong Tin Mừng Luca (7,36tt). Sự nhận dạng này này được truyền chuyển, được bổ sung với các câu chuyện của những người tội lỗi khác và định hướng cách nhìn Maria Magdalena trong Giáo hội Công giáo mãi cho đến thế kỷ 20.