Tác giả: Alceste Catella
Lm. Antôn Nguyễn Phi Tiến, SVD trích dịch từ: ANSCAR I. CHUPUNECO, O.S.P., Handbook For Liturgical Studies, Volume II, Fundermantal Liturgy, Pueblo Book, The Liturgy Press, Collegeville Minesota, 1997, tr. 3-28. |
ĐẠI CƯƠNG VỀ THẦN HỌC PHỤNG VỤ
Là bước đầu tiên để tiến đến một nền thần học Phụng Vụ đích thực, chúng ta hãy đặt vấn đề: “Tại sao biến cố Vượt Qua của Đức Kitô lại được hiện tại hoá trong Phụng Vụ qua hình thức nghi lễ?” Câu hỏi này đòi hỏi chúng ta khám phá lý do nền tảng khiến cho Giáo Hội không thể không cử hành và không thể vượt qua trung gian của nghi lễ, nếu thực sự muốn “tiếp cận mầu nhiệm.”
- “Để thiết lập và xác lập nền thần học Phụng Vụ một cách có khoa học, điều cần thiết trước tiên là phải khảo sát khả thể về mầu nhiệm Vượt Qua được hiện tại hoá trong nghi lễ.”[1] Đây là một cách diễn đạt rất đáng chú ý, bởi vì nó xác định cách minh nhiên vai trò của việc hiểu biết nghi lễ, nếu người ta thực sự muốn hiểu việc thờ phượng Kitô giáo. Do đó, một không gian đã được mở ra cho chiều kích nhân học trong tiến trình nghiên cứu thần học. Tuy nhiên, chiều kích nhân học ấy dường như vẫn được xem là tách biệt với – hay chỉ “như là bước đầu tiên” cho chiều kích thần học.
Thật vậy, một khi bản chất của đối tượng nghiên cứu được sáng tỏ – tức là nghi lễ Kitô giáo trong mối liên hệ với nền tảng của nó – thì cần phải bước vào một quá trình dài của cuộc tra cứu mang tính hiện tượng giải thích học (a phenomenological-hermeneutic inquiry). Mục tiêu của tiến trình này là nhằm nhận định những điều kiện khả dĩ để khám phá nền tảng tối hậu của nghi lễ Kitô giáo. Điều này đòi hỏi phải vượt qua sự phân cực giữa nhân học và thần học, giữa bình diện siêu việt và phạm trù: nghĩa là cần phân định sự thống nhất cơ bản giữa nhân học và thần học. Để xác định nhiệm vụ của thần học Phụng Vụ (ít là trong khía cạnh phương pháp luận), cần thiết phải lưu ý đến những mục tiêu sau: đạt tới sự hiểu biết về “chân trời ý nghĩa” của hành động cử hành Kitô giáo;[2] một nền thần học về việc cử hành Phụng Vụ Kitô giáo không thể không bàn thảo một cách có khoa học về việc thực hành nghi lễ, và điều này phải được thực hiện ngay từ đầu; không thể xoá bỏ được suy tư về “lý do tại sao” cần phải cử hành các nghi lễ để đi vào sự hiệp thông với Thiên Chúa; không thể không giải quyết nghịch lý nơi Đức Giêsu – Đấng đã kêu gọi phải phụng thờ “trong Thần Khí và sự thật” – nhưng chính Người lại thiết lập các nghi lễ cụ thể để chuyển giao ân sủng và giao ước của Ngài cho các môn đệ.[3]
Chúng ta nhận thức thấu đáo cả sự phức tạp lẫn tính tinh tế trong vai trò của thần học Phụng Vụ khi tìm câu trả lời cho vấn nạn “vì sao” phải thực hành nghi lễ. Quả thật, mối liên hệ giữa nghi lễ / việc thờ phượng và Phụng Vụ Kitô giáo là một trường hợp nghiêm túc nằm trong số những mối tương quan rộng lớn hơn – mà nó hiện hữu giữa bằng chứng và đức tin, giữa điều thánh liêng và đức tin, giữa tôn giáo và đức tin. Và quả thực, việc lưu tâm đến những hướng đi mà các học giả đã khai mở – những người đã vượt qua sự tách biệt và nhị nguyên, hay những sự đối lập đơn giản hoặc những lối quy chiếu máy móc, nhằm làm sáng tỏ tầm quan trọng thần học của các phạm trù vừa nêu là điều vô cùng hữu ích cho công trình thần học Phụng Vụ ngày nay.[4]
Để trình bày rõ ràng và đơn giản hơn, giờ đây chúng ta trở lại với một trích đoạn trong Hiến chế về Phụng vụ Thánh: “Vì là công việc của Chúa Kitô Tư Tế và Thân Thể Người là Giáo Hội, nên tất cả các cử hành Phụng Vụ đều là hành vi linh thánh trổi vượt, không một hành vi nào khác của Giáo Hội có hiệu lực bằng, xét cả về danh hiệu lẫn đẳng cấp” (SC 7).
Như chúng ta có thể nhìn thấy nơi đây sự hiện hữu những thực tại cụ thể của đức tin Kitô giáo và những thực tại ấy được hiện thực hoá qua những thực thể hoàn toàn mang tính nhân loại, như mối tương quan, hành động và những gì tương tự. Điều này không có nghĩa là hai cấp độ đồng nhất với nhau, cũng không khẳng định rằng phạm trù đức tin tương đương với kinh nghiệm nhân loại. Tuy nhiên, cần khẳng định rằng: để đạt tới sự hiểu biết và có được một “sự vâng phục đức tin” đích thực, con người phải bước vào “chân trời ý nghĩa” bao quát của những kinh nghiệm nhận loại (nói chung và cụ thể hơn, trong việc hiện thực hoá chúng qua kinh nghiệm tôn giáo). Người ta không thể hiểu được tính đặc thù của đức tin Kinh Thánh nếu không chỉ ra được cách thức mà đức tin ấy thể hiện qua chiều kích của kinh nghiệm – vốn được xác định bởi thực tại thánh thiêng”.[5] Hơn nữa: “người ta không thể thiết lập chân lý của sự thánh liêng nếu không xuất phát từ đức tin; và ngược lại, cũng không thể biện minh cho đức tin như là hình thức chân thật của lương tâm nếu không chỉ ra mối liên hệ thiết yếu giữa đức tin ấy với thực tại thánh thiêng.” “Đây chính là giá trị thần học của vấn đề thánh thiêng: nó không chỉ như một ứng dụng đơn thuần của các nguyên lý thần học, nhưng như một phương diện thuộc về trực giác nội tại của các nguyên lý ấy.”[6]
Những hệ quả của các suy tư trên đối với công trình nghiên cứu thần học Phụng Vụ thật rõ ràng. Thần học Phụng Vụ tự bản chất đã được quy hướng cách nội tại về biến cố Mạc Khải dưới hình thái của hành vi cử hành (sub specie celebrationis), nghĩa là dưới chiều kích của nghi thức và biểu tượng, như một phương thế diễn tả sự hiện diện và lịch sử cứu độ của mầu nhiệm. Vì thế, thần học Phụng Vụ có khuynh hướng ưu tiên tính Bí tích mang chiều kích tức thời, như là phương thức trung gian thần học đích thực. Thần học này quy chiếu đến dấu chỉ Bí tích của thực tại được biểu thị cách thần học, trong bối cảnh của hành vi cử hành; do đó, thần học Phụng Vụ không thể từ bỏ một lộ trình suy tư luôn chú ý và cẩn trọng đối với các ngành khoa học như triết học, nhân học và hiện tượng học, vốn là những ngành nghiên cứu sâu rộng về hành vi tôn giáo nơi con người.
Để minh hoạ, điều này có thể được thực hiện bằng cách theo đuổi hướng suy tư về kinh nghiệm tôn giáo. Những động lực mang tính lưỡng cực của kinh nghiệm ấy, cùng với các đặc tính của “tuyệt đối vô điều kiện,” “tự biểu lộ” và “hoàn toàn nhưng không”, đòi hỏi một ngôn ngữ riêng biệt, tương ứng với một phương thức hành động đặc thù: ngôn ngữ biểu tượng và hành vi nghi lễ. Chính hướng nghiên cứu này dường như là con đường đúng đắn để khơi mở chiều kích ý hướng, tức là “tại sao phải cử hành”. Thật vậy, khi hành vi cử hành được thể hiện như một ngôn ngữ biểu tượng và biểu tượng trong hành động, cho phép thiết lập mối hiệp thông / truyền thông với Thiên Chúa, nhưng đồng thời luôn duy trì sự khác biệt, tính vượt trội và sự bất cân xứng. Chính nhờ tính chất khác-biệt-tượng-trưng nội tại và đặc thù của cử hành Phụng Vụ mà điều này được thực hiện.[7]
Chúng ta kết thúc suy tư về “tại sao phải cử hành” với lời dạy của thánh Âu-tinh. Trong Bài giảng 272 (Sermo in die Pentecoste ad infantes, de sacramento), ngài đã ngỏ lời với các tân tòng vừa được tham dự vào Bí tích Thánh Thể, và muốn giúp họ hiểu mầu nhiệm mà họ đã được tham dự: “Anh em là thân thể Đức Kitô… Vậy nếu anh em là thân thể Đức Kitô và là chi thể của Người và mầu nhiệm của anh em được đặt trên bàn tiệc của Chúa, thì hãy đón nhận mầu nhiệm của chính mình. Với điều mà anh em là, hãy thưa Amen.”[8]
Có thể nói rằng thánh Âu-tinh đã trình bày một cách hiểu đầy ý nghĩa về hành động Phụng Vụ: một kinh nghiệm có khả năng thiết lập một vòng tròn giao tiếp độc đáo và linh thánh. Trong hành động này, ta nhận ra một chủ thể khởi xướng – chính là Thiên Chúa – Đấng luôn đi bước trước trong việc mạc khải và cứu độ; tuy nhiên, điều đó không loại trừ người đón nhận – tức cộng đoàn tín hữu – nhưng ngược lại, họ được mời gọi tham dự một cách tích cực và đầy đủ. Đây chính là bản chất của hành động Phụng Vụ: một vòng giao tiếp thánh thiêng, được đặc trưng bởi sự gia tăng liên tục của ý nghĩa, được hình thành và đào sâu từ chính kinh nghiệm đức tin của cộng đoàn Kitô hữu vốn ngày càng được định hình trong suốt lịch sử cứu độ theo một kế hoạch thần linh đã có từ khởi nguyên và đồng thời đang hướng tới sự viên mãn cánh chung trong Đức Kitô.
- Có phải cốt lõi của thần học Phụng Vụ là suy tư về “điều gì” được cử hành, hay đúng hơn là “Cộng đoàn Kitô hữu cử hành điều gì”?
Sứ mạng của thần học Phụng Vụ hệ tại ở việc chất vấn và đào sâu về những gì người Kitô hữu tin và những gì người Kitô hữu cử hành. Tuy nhiên, điều này không nên được hiểu theo nghĩa: “điều được tin” chỉ đơn thuần là một nội dung được đặt bên trong một “chiếc bình” gọi là Phụng Vụ. Trái lại, mục tiêu là nghiên cứu thực hành Phụng Vụ cụ thể, để từ đó nhận ra “đức tin được cử hành” – nghĩa là mầu nhiệm (mysterium) mà cộng đoàn Kitô hữu cử hành và sống động trong đời sống Phụng Vụ.
Cần có một sự suy tư sâu xa hơn mà điều này có thể được diễn tả qua vấn nạn: “Phải chăng những gì đã được khẳng định trong suy tư trước đó, cùng với những lập luận đã triển khai lại gợi lên một nghi vấn rằng: đối tượng mà người Kitô hữu cử hành – tức là mầu nhiệm được Phụng Vụ hiện tại hóa – thật ra chỉ là một hình thức rút ra từ kinh nghiệm cử hành của con người?”
Có hai hướng trả lời cho vấn nạn vừa nêu trên. Hướng thứ nhất là cách tiếp cận nghiêm túc và đúng đắn đối với kinh nghiệm mang tính nghi lễ (ritual experience), không vội vàng gán ghép nó như thể chỉ là một trong những nỗ lực của con người nhằm vươn lên với Thiên Chúa. Hơn nữa, cần phải nhắc lại rằng: “Hành vi nghi lễ hóa… diễn tả việc chúng ta nhìn nhận ý nghĩa được ban tặng nơi đó; đồng thời, nó cũng xác lập ý nghĩa ấy, giúp nó không bị phụ thuộc vào sự bấp bênh không thể kiểm soát của những kinh nghiệm tâm lý thoáng qua. Nhờ đó, nghi lễ giúp định hình chính nỗ lực nội tâm của con người (conatus humanus), khiến nghi lễ không còn đơn thuần là một khát vọng trần trụi, nhưng trở thành một thực tại có thể được diễn tả và ý thức rõ ràng.”[9] Hơn nữa, khi kinh nghiệm tôn giáo được phân tích cách đúng đắn, đó là một cuộc gặp gỡ giữa hai thái cực cấu thành nên chính kinh nghiệm ấy (và những thái cực này vẫn luôn hiện diện trong kinh nghiệm, thậm chí được mạc khải trong sự khác biệt không thể giản lược chúng): Đấng Siêu Việt và sự tiếp nhận cuộc gặp gỡ / kinh nghiệm ấy nơi con người. Thật không thích đáng và thiếu sót nếu giới hạn kinh nghiệm này chỉ trên bình diện nội tại; bởi trong đó, ân ban từ trời cao luôn hiện diện như một yếu tố thiết yếu.[10]
Một hướng tiếp cận thứ hai mang tính thần học sâu sắc hơn, nhằm đạt được hai điều: Một đàng, nhận ra tầm quan trọng về phương pháp luận của việc quy chiếu đến kinh nghiệm tôn giáo – không chỉ như một giai đoạn sơ khởi có thể bị vượt qua bởi hành vi tuyên xưng đức tin, nhưng như một chiều kích mang tính ý hướng vốn là yếu tính và không thể thay thế của chính đức tin. Đàng khác, cho thấy rằng trật tự độc đáo của đức tin Kitô học không hề – và không thể – được suy diễn đơn thuần từ kinh nghiệm tôn giáo của con người.[11] Đức tin Kitô học không hủy bỏ kinh nghiệm tôn giáo của con người, cũng không loại trừ kinh nghiệm Phụng Vụ và hành động cử hành, nhưng đồng thời cũng không phải là toàn bộ nội dung duy nhất của nó. Biến cố Kitô học chính là thực tại mặc khải trọn vẹn kinh nghiệm tôn giáo và làm cho kinh nghiệm ấy trở nên chân thực.
Chúng ta hãy tóm lược như sau: Việc cử hành Phụng Vụ Kitô giáo chính là điểm đặc thù, nơi đó diễn ra việc đón nhận trong đức tin hồng ân mà Đức Giêsu Kitô trao ban cho đời sống người Kitô hữu. Giờ đây, hồng ân của Đức Giêsu Kitô đối với đời sống Kitô hữu có thể được diễn tả lại qua thuật ngữ “mầu nhiệm”; và chính từ việc suy tư trên thực tại này mà việc nghiên cứu đối tượng của việc cử hành Phụng Vụ sẽ tiến triển. Nhằm phác họa những bước căn bản cần thực hiện, chúng ta hãy tiến hành theo cách thức sau:
- a) Trước hết, cần phải khảo sát một cách nghiêm túc ý niệm đích thực về mầu nhiệm (mysterium) và Bí tích (sacramentum), đồng thời nắm bắt hai yếu tố nền tảng. Thực tại “mầu nhiệm” vừa biểu lộ cách bất khả phân ly “biến cố cứu độ”, vừa chính là việc cử hành biến cố ấy. Thực tại “mầu nhiệm” mang bản chất và cấu trúc lịch sử-cứu độ.
- b) Hiến Chế Phụng Vụ Thánh trong các số 5, 6 và 7 mời gọi chúng ta tiến thêm một bước nữa. Bằng việc khảo sát lịch sử cứu độ để nắm bắt được toàn bộ kế hoạch và động lực nội tại của lịch sử ấy, chúng ta khám phá ra rằng việc cử hành Phụng Vụ là một phần không thể tách rời của kế hoạch cứu độ và của những động lực cứu độ này – nghĩa là, chính việc cử hành Phụng Vụ là một phần của lịch sử cứu độ. Tính tuyệt đối và bất khả suy diễn của kế hoạch cứu độ cũng như việc thực hiện kế hoạch ấy nơi Đức Kitô đòi hỏi một lời nói và một hành động mang những đặc tích mà đã được trình bày khi chúng ta xác lập tầm quan trọng của ngôn ngữ biểu tượng và hành vi cử hành trong kinh nghiệm tôn giáo.
Thật hữu ích khi đọc lại văn bản của Hiến Chế Phụng Thánh số 6 (văn bản này là hệ quả hợp lý của số 5): “Như Chúa Kitô đã được Chúa Cha sai đến thế nào, thì các Tông Đồ đầy tràn Thánh Thần cũng được chính Chúa Kitô sai đi như vậy, không những để khi rao giảng Phúc Âm cho mọi thụ tạo, các ngài loan báo việc Con Thiên Chúa đã dùng cái chết và sự sống lại của Người để giải thoát chúng ta khỏi quyền lực Satan và sự chết, để dẫn dắt các ngài thực thi công cuộc cứu chuộc đã được loan báo, nhờ hy lễ Hiến tế và các Bí tích, điểm quy hướng của toàn thể đời sống Phụng Vụ.”
- c) Bước thứ ba thực sự đưa chúng ta vào trọng tâm của hành trình thần học Phụng Vụ: nắm bắt sự hiện diện của lịch sử cứu độ trong việc cử hành Phụng Vụ. Ở đây, một chỉ dẫn từ Công Đồng cũng có thể được vận dụng. Thật vậy, Hiến Chế Phụng Vụ Thánh số 7 đã khai triển khái niệm Phụng Vụ xoay quanh phạm trù về sự hiện diện phong phú của Chúa: “Để thực hiện công trình cao cả này, Chúa Kitô luôn hiện diện trong Hội Thánh của Người, cách đặc biệt là trong các hành động Phụng Vụ… Do đó, mọi cử hành Phụng Vụ đều là hành vi thánh thiêng vượt trổi hơn mọi hành vi khác.”
Ở điểm này, công cuộc tìm kiếm và xác định các chiều kích của hành vi Phụng Vụ – điều làm cho nó trở thành phương thế hiện diện của Thiên Chúa – có thể được làm sáng tỏ hơn: đó là chiều kích tưởng niệm (anamnetic), nhưng cũng bao gồm cả chiều kích hướng về tương lai (proleptic), chiều kích chúc tụng (doxological) và chiều kích khẩn cầu (epicletic). Trong một diễn luận thần học Phụng Vụ, chúng ta coi việc nghiên cứu sâu rộng về phạm trù “sự hiện diện” – hoặc đúng hơn là “các hình thức hiện diện” – là điều quan trọng và mang tính quyết định.
Trước hết, cần phải vượt qua một cách tiếp cận mang tính khách quan (objectivistic) khi xem xét vấn đề sự hiện diện trong Phụng Vụ. Không ai phủ nhận giá trị khách quan của việc tưởng niệm Phụng Vụ, tức là việc tưởng niệm này không tùy thuộc vào nỗ lực cá nhân hay phẩm chất chủ quan của người tham dự. Tuy nhiên, phải tiến xa hơn đến một cái nhìn mang tính tương quan: nghĩa là, trong việc cử hành, xảy ra một sự hiện diện vốn dĩ là một tương quan – được định hình bởi một tính chất “trực tiếp có trung gian”, tức là một cuộc gặp gỡ mang tính cá vị, được thực hiện qua dấu chỉ hoặc biểu tượng (sign / symbol). Nói cách khác, sự hiện diện của Chúa trong Phụng Vụ không chỉ đơn thuần là “có đó một cách khách quan”, mà là một sự hiện diện sống động, mang tính tương quan – trong đó Đức Kitô gặp gỡ dân Người qua các dấu chỉ Bí tích và hành vi cử hành, một cách vừa gần gũi vừa mầu nhiệm.
Thứ đến, toàn bộ các chiều kích của Phụng Vụ phải cùng góp phần vào việc “diễn tả” sự hiện diện của Thiên Chúa. Như thế, hành vi Phụng Vụ sẽ xuất hiện như một “sự hiện diện” không thể bị giới hạn, không thể bị gạt bỏ, nhưng luôn phải được khẩn cầu và ca tụng, luôn được sống trong khoảng giữa thời “đã qua” và “chưa tới”, giữa ký ức và niềm mong đợi. Trong “thời gian giữa hai thời điểm”, tức là trong thời của Hội Thánh, Đức Kitô không còn hiện diện hữu hình; tuy nhiên, Đấng Vắng Mặt ấy lại hiện diện theo nhiều cách thức khác nhau: Người hiện diện trong Hội Thánh, nơi Hội Thánh nhân danh Người mà loan báo Lời Chúa; nơi Hội Thánh nhân danh Người mà lặp lại các hành vi của Người; nơi Hội Thánh nhân danh Người mà sống hiệp thông huynh đệ. Chính trong những chứng từ này mà Đức Kitô được “thành hình”, được nhìn thấy và được gặp gỡ.[12] Do đó, diễn từ Phụng Vụ không chỉ nói về một sự hiện diện tĩnh tại, nhưng là một sự hiện diện sống động và năng động, được thiết lập trong tương quan tình yêu và trong niềm hy vọng cánh chung – một sự hiện diện đòi hỏi phải được phụng thờ và thể hiện trong đời sống cộng đoàn.
- d) Một giai đoạn khác trong tiến trình nghiên cứu thần học Phụng Vụ là khảo sát mối tương quan giữa Đức Tin và Phụng Vụ. Chúng ta nên bắt đầu với lòng xác tín rằng cử hành Phụng Vụ có mục đích nền tảng là hành vi đức tin, nghĩa là đức tin được diễn tả thực sự như một cuộc gặp gỡ hữu hiệu với mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa. Việc cử hành có sự tương quan mật thiết với hành vi đức tin; mục đích của việc cử hành là làm triển nở hành vi đức tin – biểu lộ một đời sống đức tin toàn diện và phong phú, đồng thời thực hiện điều này trong và qua một hành vi đặc thù – hành động có khả năng đặt con người trước biến cố cứu độ – đồng thời trở thành một sự thừa nhận (tiếp nhận / đồng thuận) rằng ơn cứu độ chỉ được trao ban trong mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa.
Khởi đi từ đây, chúng ta cần dừng lại để suy tư về mối tương quan giữa Lời Chúa và Phụng Vụ, giữa Kinh Thánh và Phụng Vụ. Trước hết, điều quan trọng là phải nhấn mạnh rằng việc cử hành Phụng Vụ (gồm các bản văn và cử chỉ) được nuôi dưỡng và đặt nền tảng nơi Lời Kinh Thánh, yếu tố mang lại ý nghĩa sâu xa cho mọi điều đang được cử hành. Nhiều phần của Kinh Thánh bắt nguồn từ các bối cảnh Phụng Vụ, hoặc cũng được hình thành xuyên qua những bối cảnh Phụng Vụ ấy. Hơn nữa, một thực tại nền tảng không thể bỏ qua là: Kinh Thánh, khi được công bố trong Phụng Vụ trở thành Lời Chúa, nghĩa là Lời mà Thiên Chúa đang phán dạy “ở đây và lúc này” cho người lắng nghe trong thái độ tin tưởng, suy niệm và đem ra thực hành. Chính Lời ấy khơi nguồn cho hành vi Phụng Vụ, trong đó diễn ra hành vi đức tin, hành vi đón nhận và tuyên xưng như đã đề cập ở trên. Cộng đoàn cử hành bày tỏ sự hiệp thông của mình bằng lời đáp trả – vừa nhìn nhận và cầu nguyện, vừa tham dự vào cử chỉ biểu tượng (hay đúng hơn, bằng việc mở lòng mình ra trong Thánh Thần để đón nhận cách nội tâm mầu nhiệm được trao ban và hoàn tất trong nghi lễ). Trong Phụng Vụ, Lời Chúa trở thành một biến cố nuôi dưỡng đức tin, nhờ đó chính hành động tự do của con người đón nhận biến cố đó và ân sủng được trao ban qua biến cố ấy.[13]
Chính việc thấu hiểu hành trình của Lời Chúa trong hành vi Phụng Vụ (từ Lời được công bố và cử hành đến đức tin đón nhận Lời) cho thấy một khía cạnh khác trong mối tương quan giữa Đức Tin và Phụng Vụ: hành vi Phụng Vụ là một nguyên lý thần học độc đáo (locus theologicus), một lời tuyên xưng (confessio fidei) độc nhất vô nhị. Nơi đây, các mầu nhiệm đức tin (mysteria fidei) được tuyên xưng cách xác đáng và chân thật, đồng thời khẳng định một cách mạnh mẽ rằng đức tin không thể không được ban tặng trong tư cách là một thực tại được cử hành; thực vậy, chính hành vi cử hành được đảm nhận như yếu tố cấu thành nên đức tin.[14]
- e) Suy tư về mối tương quan giữa Đức Tin và Phụng Vụ trình bày một thực tại nền tảng: biến cố cứu độ được cử hành trong Phụng Vụ tất yếu đòi hỏi một lời đáp trả đức tin từ phía người tham dự; vì thế, đối tượng của việc cử hành (cũng có thể nói) chính là chủ thể. Hiến Chế Về Phụng Vụ Thánh số 7 và số 26 đã minh nhiên tuyên bố mối tương quan cấu thành này giữa Giáo Hội và việc cử hành: “Các hành vi Phụng Vụ không phải là những hành vi tư riêng, nhưng là việc cử hành của chính Giáo Hội… chúng thuộc về toàn thể thân thể của Giáo Hội, biểu lộ và quy hướng về chính thân thể đó.”
Mối tương quan giữa Phụng Vụ và Giáo Hội là toàn vẹn, và nguyên tắc Giáo Hội học này được xác quyết rằng: chính toàn thể Giáo Hội (trong cơ cấu rõ ràng và thiết yếu của mình) là “nơi chốn” duy nhất mà Phụng Vụ có thể được diễn ra trong môi trường đích thực của nó và được hiểu như là một việc cử hành hiện thực. Hơn nữa, Phụng Vụ chính là “nơi” mà Thân Thể Chúa Kitô tự mặc khải như là Giáo Hội – đúng hơn, như bản chất đích thực của mình: là phương thế để kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô (x. LG s. 1, 3).
Những hệ quả phát sinh từ khẳng định này hết sức quan trọng. Phụng Vụ là một hành động cộng đoàn (Giáo Hội) theo nghĩa là hành động đó được thực hiện như bởi một chủ thể toàn vẹn, bởi chính Giáo Hội hiện diện và quy tụ cách cụ thể tại một cộng đoàn địa phương. Giáo Hội cử hành trong dấu chỉ của cộng đoàn quy tụ, vốn là biểu hiện rõ ràng nhất của Giáo Hội, một trong những “biểu hiện thần hiện” (epiphanies) ưu tuyển nhất của Giáo Hội. Cụm từ “cộng đoàn là chủ thể của việc cử hành” cần được hiểu theo nghĩa chủ động, chuyển động: cộng đoàn thực hiện việc cử hành (assembly agit celebrationem). Tuy nhiên, cũng không thể bỏ qua khía cạnh bổ sung thụ động, đó là cộng đoàn được trở thành Giáo Hội nhờ việc cử hành, nghĩa là Giáo Hội chính thức được hình thành nhờ vào việc cử hành, chứ không phải nhờ vào tính năng động tự thân của cộng đoàn.[15] Tuy nhiên, nếu lời giải thích sau cùng này là sự thật, thì phải khẳng định rằng Giáo Hội mang bản chất Phụng Vụ từ trong chính cấu trúc nội tại của mình. Giáo Hội được sinh ra nơi mà con người được quy tụ trước mặt Thiên Chúa để được thông phần vào ân sủng của Thiên Chúa trong giao ước của Người; chính “ngày hội họp thánh” là nguồn mạch sự sống của Giáo Hội. Giáo Hội sống “cuộc hội họp thánh” như một thời khắc tổng hợp và như đỉnh cao của đời sống Giáo Hội; thật vậy, chính nơi cộng đoàn quy tụ, Giáo Hội nhận biết Thiên Chúa là Đấng Hằng Hữu và đón nhận Lời của Ngài – Lời ấy trở thành một kế hoạch sống và một sự phán xét; mà cả kế hoạch lẫn sự phán xét ấy đều là Tình Yêu.
Có một hệ quả tối hậu: nếu Phụng Vụ là một hành động mang tính cộng đoàn, nếu Giáo Hội là cộng đoàn có nguồn gốc và đỉnh cao nơi việc tham dự vào giao ước, thì cộng đoàn cử hành Phụng Vụ chỉ có thể được hiện hữu và sống nhờ vào sức mạnh của mối tương quan vừa cả với Thiên Chúa và với con người. Toàn bộ sức sống của sự tham dự tích cực và sống động (actuosa participatio) đều bắt nguồn từ đây; và sức sống này mang một chiều kích và một hình thức thừa tác vụ (phục vụ), được thể hiện trong sự đa dạng và bổ túc lẫn nhau của các đặc sủng và các thừa tác vụ.[16]
Kết luận phần tìm hiểu về vấn đền Phụng Vụ Kitô giáo cử hành “điều gì”, chúng ta có thể khẳng định: chính con đường gắn bó mật thiết giữa “lý do” và “nội dung” ấy cũng giúp chúng ta giải quyết đúng đắn một số vấn đề vốn làm cho việc đón nhận kinh nghiệm Phụng Vụ nơi Dân Chúa trở nên khó khăn và phức tạp hơn. Một số mối tương quan cần được chú ý nhiều hơn, cụ thể là: mối tương quan giữa Phụng Vụ và cái nhìn về vũ trụ, con người, lịch sử, thân xác; mối tương quan với đạo đức, bác ái; mối tương quan với đời sống thiêng liêng, lòng đạo đức bình dân, cầu nguyện. Những điều này đặt ra các vấn nạn như: tính khách quan và chủ quan có đối lập nhau không? Tính cộng đoàn và tính cá nhân có mâu thuẫn nhau không? Qua đó, nghiên cứu Phụng Vụ không chỉ truy tìm nội dung cử hành, mà còn phải đặt nó trong mạng lưới những mối tương quan nền tảng, vừa nhân học vừa thần học, vốn định hình kinh nghiệm đức tin của Kitô hữu.
- Vẫn còn lĩnh vực nghiên cứu thứ ba đối với lãnh vực thần học Phụng Vụ: đó là “cách thức cử hành”. Và một câu trả lời cho vấn nạn này có thể là: người ta cử hành bằng “thân thể sống động”, nghĩa là người ta cử hành với toàn thể hữu thể và hành động của chính mình được định hình trong thời gian và không gian.
- a) Thời gian Phụng Vụ được hiểu một cách tổng quát là thời gian được sống như một cuộc gặp gỡ mang tính cử hành giữa con người và biến cố cứu độ có tính lịch sử. Như thế, mối liên hệ đầu tiên giữa thời gian và Phụng Vụ được xác lập bởi tính lịch sử-cứu độ của mầu nhiệm mà Phụng Vụ được cử hành. Theo nghĩa này, Phụng Vụ là một khoảnh khắc bí tích mang lại hiệu quả thực sự trong thời gian cứu độ.
Tuy nhiên, Phụng Vụ cũng là một thời gian đặc biệt mang tính biểu tượng, tượng trưng cho việc dừng lại của dòng chảy thời gian. Thời gian Phụng Vụ tạo ra thời gian hiện sinh, theo nghĩa là nó giúp con người nắm bắt được ý nghĩa và giá trị của những ngày mà họ được mời gọi để làm việc. Thuật ngữ ngày Sabát “sabbatical” chính là nguồn gốc và đỉnh cao của thời gian làm việc chăm chỉ. Khoảng thời gian được “thêm vào” này (chúng ta có thể gọi là “ngày lễ”), chính là thời gian hiện hữu của con người và nó có khả năng biến đổi thời gian; là một hình thức thay đổi mang tính biểu tượng, nhờ đó thời gian Phụng Vụ không chỉ là “một số” thời gian, mà chính là thời gian khác – khác biệt về phẩm chất. Trong bối cảnh toàn thể đời sống Kitô giáo, Giáo Hội có thể và cần cổ võ một ngày (Chúa Nhật) và những khoảng thời gian nhất định (Giờ Kinh Phụng Vụ và Năm Phụng Vụ). Thật vậy, thời gian Phụng Vụ loan báo và cử hành mầu nhiệm Đức Kitô trong bối cảnh của ngày lễ – tức là trong một bối cảnh khác biệt và mới mẻ tuyệt đối, không thể suy diễn. Và thời gian này xét xử và phá đổ mọi toan tính chống lại quyền tối thượng của Thiên Chúa.
Như chúng ta đã trình bày, chính vì lý do này mà thời gian cử hành Phụng Vụ được ban tặng, là một khởi đầu và là một sự sẵn sàng cho cuộc gặp gỡ; là một khoảnh khắc có khả năng biểu lộ cấu trúc hiện sinh của con người như một hữu thể có khả năng quyết định. Trong thời gian cử hành Phụng Vụ là chính thời gian đời thường được thánh hiến bởi lời mời gọi của Thiên Chúa và bởi quyết định có trách nhiệm và vâng phục của con người.[17]
- b) Liên quan đến mối tương quan giữa không gian và Phụng Vụ, từ nguyên thủy, mối tương quan này được đặt nền trên tính “đồng bản thể” giữa cấu trúc của ơn cứu độ và cấu trúc của cử hành Phụng Vụ. Ơn cứu độ là một thực tại được biểu lộ không chỉ trong thời gian mà còn trong không gian: trong không gian vũ trụ và trong không gian do con người kiến tạo và cư ngụ. Theo một cách thế nào đó, Phụng Vụ chính là “môi trường” của biến cố thông ban ơn cứu độ trong hiện tại, đồng thời là môi trường mà con người được ban cho khả năng khám phá và đón nhận mầu nhiệm cứu độ ấy.
Thế nhưng, đối với thời gian, Phụng Vụ khai sinh một dạng thức “không gian khác”: các thánh đường với cấu trúc và cách bài trí của chúng chính là “nơi thượng giới được trang hoàng lộng lẫy” không chỉ để chứa đựng mà còn để diễn tả mầu nhiệm được hiện tại hoá ở đó. Và không gian này, trong một chừng mực nó được “làm nên” bởi từng người và bởi cộng đoàn Phụng Vụ, có khả năng biểu lộ bản chất và sứ mạng của từng người cũng như của toàn thể cộng đoàn. Thật vậy, chính cộng đoàn Phụng Vụ là Hội Thánh đích thực, là không gian đích thực, là nơi chốn thật sự, trong đó biến cố cứu độ được thực hiện cách bí tích. Chính trong ánh sáng của những nhận định này mà mọi suy tư thần học về nơi thờ phượng được đặt nền tảng; mọi suy tư về nghi lễ cung hiến nhà thờ và bàn thờ đều phát xuất từ đây; và mọi chỉ dẫn thực hành liên quan đến việc xây dựng và trang trí thánh đường cũng phải được hiểu trong viễn cảnh này.
- c) Các hành vi Phụng Vụ, với tư cách là những hành vi cử hành (biểu tượng và nghi lễ), bao gồm nhiều yếu tố khác nhau như: lời nói, cử chỉ, âm thanh, thinh lặng, hành động. Trong sự phong phú và giới hạn của tính nhân loại, chúng trở thành con đường Phụng Vụ để cảm nếm và thông dự vào mầu nhiệm cứu độ. Trong số các yếu tố ấy, lời nói chắc chắn là yếu tố hiện diện rõ nét nhất trong cử hành Phụng Vụ. Chúng ta có thể kể ra nhiều hình thức diễn ra của lời: một người đọc sách trước mặt cộng đoàn và mọi người cùng lắng nghe; một người dâng lời nguyện lên Thiên Chúa nhân danh toàn thể cộng đoàn và mọi người tham dự bằng lòng trí và sự đồng thuận; hoặc tất cả cùng cất lên lời đáp, lời tuyên xưng, lời chúc tụng hay lời khẩn cầu.
Chúng ta nhận thấy rằng lời nói khi không bị phân tích cách rời rạc mà được xem xét trong mối tương quan đan xen giữa chúng, cũng như trong chuyển động từ thinh lặng hoặc hướng về thinh lặng, thực sự trở thành một kinh nghiệm đích thực của lắng nghe và đáp trả: một kinh nghiệm của đối thoại. Tại đây, chúng ta khám phá lại điều có thể gọi là một nguyên lý bất biến trong cử hành Kitô giáo: mọi cấu trúc Phụng Vụ đều xuất hiện như một cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa, Đấng ngỏ lời, và dân thánh, những người lắng nghe và đáp lại; điều này phát xuất từ bản chất đối thoại của toàn bộ lịch sử cứu độ – tức Giao Ước. Hơn nữa, nơi đây cũng được làm nổi bật một ý nghĩa thần học nền tảng cho nguyên lý bất biến ấy: chính Thiên Chúa là Đấng khởi xướng công trình cứu độ; chính Thiên Chúa là Đấng mặc khải chính mình và mời gọi con người thông phần vào mặc khải ấy. Quả thật, cộng đoàn Kitô hữu được quy tụ và hiện hữu nhờ lời mời gọi này.
Một dạng thức “diễn tả của lời” tương tự (nhưng khác biệt) cũng được tìm thấy nơi ca hát và âm nhạc. Hiến Chế Phụng Vụ Thánh biện minh cho việc sử dụng ca hát và âm nhạc trong Phụng Vụ bằng ba lý do: để làm cho lời cầu nguyện thêm phần sốt sắng, để nuôi dưỡng sự hiệp nhất và để làm cho các nghi lễ thêm phần long trọng (x. SC 112). Điều đáng lưu ý là ba lý do này thực ra cũng chính là ba giá trị nền tảng nơi kinh nghiệm nhân loại về ca hát và âm nhạc: hát cùng nhau là một trải nghiệm củng cố sự hiệp nhất của cộng đoàn; việc trang điểm cho lời bằng âm nhạc và giai điệu có thể nâng nội dung của lời nói vượt lên trên tính thông tin hay khái niệm đơn thuần để khám phá và triển khai chiều kích thi ca và cảm xúc nơi bản văn – điều cho phép người hát cũng như người nghe đi vào và cảm nếm sự cộng hưởng đa tầng của nội dung ấy; cuối cùng, ca hát và âm nhạc như một phần của “ngôn ngữ của ngày lễ,” là thành phần thiết yếu của không gian và thời gian cử hành.
Sau cùng, cần nói đến tất cả những yếu tố phi ngôn ngữ mà ta có thể quy chiếu dưới phạm trù các cử chỉ: chúng vừa là hành động vừa là ngôn ngữ và chúng mở ra khả năng cho những mối tương quan, sự kết nối và tương tác. Thông qua các cử chỉ ấy, toàn bộ các giác quan và năng lực tri giác của con người đều được lôi cuốn vào trong hành vi Phụng Vụ. Một lời diễn tả cổ xưa dường như được xác nhận tại đây: “caro salutis est cardo” – “xác phàm là bản lề của ơn cứu độ.” Thật vậy, các cử chỉ Phụng Vụ không đơn thuần là những phần kéo dài mang tính công cụ của thân xác con người; chúng chính là thân xác con người trong hành động – thân xác biết đến gần, biết nhìn, biết chạm, biết cảm thụ, biết diễn đạt và biết “thực hiện” mầu nhiệm cứu độ.
PHẦN KẾT LUẬN
“Trong thời kỳ của Giáo Hội, Đức Kitô không còn hiện diện hữu hình nữa.” Thánh Luca nhấn mạnh điều này: một khi đã phục sinh, Người là “Đấng Hằng Sống” – một tước hiệu thần linh (x. Lc 24,5); Người sống trong Thiên Chúa, Người không còn thuộc về thế gian này, như trình thuật về biến cố Thăng Thiên muốn làm nổi bật điều này. Thế nhưng, dù vắng mặt, Người vẫn hiện diện… Và Giáo Hội, để được sống nhờ ơn cứu độ của Thiên Chúa, được mời gọi khám phá lại tính năng động của mầu nhiệm Nhập Thể, và như thế, nhận ra trong thành phần nhân loại của mình những “chiếc chìa khóa mở kho tàng ân sủng” – tức là những yếu tố then chốt – vốn đã gắn kết và niêm ấn cuộc gặp gỡ với Ngôi Lời làm người: đó là Lời Tin Mừng, là việc thanh tẩy bằng nước và Thánh Thần (x. Mt 3, 11; 28, 19), là nghi thức bẻ bánh… (x. Mt 26, 26tt; Mc 14, 22-25; Lc 22, 19-20; 1 Cr 11, 23-25). Nếu chúng ta bước vào “cuộc chơi” cử hành với lòng kinh ngạc và tinh thần vô vị lợi, thì không khó để lắng nghe được tiếng Thiên Chúa mời gọi, để bước vào và dùng bữa với Đấng Hằng Sống. Chính trong cuộc gặp gỡ này, chúng ta có thể nhận được “linh dược” cho đôi mắt tâm hồn và làm cho nó trở nên tinh tường… và tâm hồn mình được sưởi ấm (x. Kh 3, 14).[18]
(Hết)
Chú thích
[1] M. Augé, trong bài viết “Thần học Phụng Vụ” (La teologia liturgica), đăng trong tác phẩm Phương pháp luận thần học. Dẫn nhập vào việc học tập và nghiên cứu liên ngành (Metodologia teologica. Avviamento allo studio e alla ricerca pluridisciplinari) (= Universo Teologia, tập 28), Cinisello Balsamo, 1994, tr. 240–251.
[2] Lưu ý rằng, trong cách diễn đạt này, khi nói “cử hành”, chúng tôi muốn nói đến thực tại Phụng Vụ được cảm nghiệm qua những hình thái cụ thể và phong phú khác nhau; còn khi nói “chân trời ý nghĩa”, chúng tôi ám chỉ đến việc chất vấn không chỉ dừng lại ở hiện tượng, mà còn được mở rộng để bao hàm cả ý hướng. Xin tham chiếu: A. N. Terrin, Leitourgia. Dimenzione fenomenologica e aspetti semiotici (= Le scienze umane) (Brescia, 1988), tr. 16.
[3] A. Catella, “Lời giới thiệu tổng quát,” trong Cử hành mầu nhiệm của Đức Kitô, (“Introduzione generale,” Celebrare il mistero di Cristo…), tr. 13–18.
[4] Ngoài một số nghiên cứu đã được đề cập trong các chú thích trước, chúng ta có thể nêu ra như những tác phẩm nền tảng: G. Colombo (chủ biên), L’evidenza e la fede (= Quaestio) (Milan, 1988); D. Power, Unsearchable Riches: The Symbolic Nature of Liturgy (New York, 1984).
[5] A. Bertuletti trong bài viết “Điều thiêng liêng và đức tin: Tính thích đáng của một phạm trù thần học,” ScC (Scienze e Coscienza) s. 123, (1995), tr. 665–668; đặc biệt trên các trang 675–676, tác giả trích dẫn tác phẩm của P. Beauchamp, Le récit, la lettre et le corps (tạm dịch: Truyện kể, chữ viết và thân thể), (Paris, 1992).
[6] Ibid., 667.
[7] Tôi rút ra “hành trình” và những suy tư này từ R. Tagliaferri, “La via liturgica,” Servitium 28 (1994), và G. Bonaccorso, La liturgia: celebrare il mistero (Padova, 1996).
[8] “Vos estis corpus Christi…, si ergo vos estis corpus Christ et membra,mysterium vestrum in mensa Domini positum est: mysterium vestrum accipitis. Ad i d quod estis, Amen dicitis.” Thánh Âu-tinh, Bài giảng 272, PL 38, 1247.
[9] G. Angelini, “Tiếp cận Thánh Thể dưới góc độ thần học-thực hành. Cách đặt vấn đề lý thuyết và những vấn nạn đang nổi lên,” trong Cử hành Thánh Thể: Ý nghĩa và những vấn đề của chiều kích nghi lễ (Bộ sách Thần học thực hành, tập 3), (Torino, 1983), tr. 113–137; ở đây, tr. 135.
[10] A. N. Terrin, “Phụng Vụ: Chiều kích hiện tượng học và các khía cạnh ký hiệu học,” (Leitourgía. Dimensione fenomenologica e aspetti semiotici,) tr. 32.
[11] A. Bertuletti, “Điều thiêng liêng và đức tin”, (Il sacro e la fede. . .,) tr. 684, 686.
[12] S. Maggiani, “Một nghi thức để cử hành ngày nay: giá trị biểu tượng và mục vụ,” Tụ họp để tưởng niệm Chúa phục sinh. Ý nghĩa, nghệ thuật và thực hành cử hành Phụng Vụ (= Bộ sưu tập Phụng Vụ mới, tập 5) (Milan, 1986), tr. 9–37; C. Rocchetta, “Cử hành mầu nhiệm của Đức Kitô. Từ tính duy nhất của biến cố đến sự đa dạng của các hình thức Phụng Vụ và sự vang vọng trong đời sống,” cùng tuyển tập, tr. 38–59; Cùng tác giả, “Phụng Vụ: biến cố và ký ức,” Cử hành Kitô giáo: những chiều kích cấu thành của hành vi Phụng Vụ (= Nghiên cứu về Phụng Vụ – Tân loạt, tập 14) (Genova, 1986), tr. 45–78; xem thêm J. J. Von Allmen, Célébrer le salut. Doctrine et pratique du culte chrétien (Geneva–Paris, 1984) (bản dịch tiếng Ý: Cử hành ơn cứu độ. Giáo lý và thực hành của việc thờ phượng Kitô giáo, Leumann [TO], 1986).
[13] Về các chủ đề này, xin tham khảo: G. Lathrop, Holy Things: A Liturgical Theology (Minneapolis, 1993); Nhóm tác giả (AA.VV.), Kinh Thánh và Phụng Vụ, Từ chú giải đến chú giải thần học qua việc cử hành; Scriptura crescit cum orante (Kinh Thánh lớn lên với người cầu nguyện); Nơi Lời được tái sinh (= Caro Salutis Cardo – Những đóng góp, số 6, 7, 8) (Padova, 1991–1993).
[14] F. Brovelli, “Đức Tin và Phụng Vụ” (Fede e Liturgia,) NDL, 543-55.
[15] S. Maggiani, “Cử hành mầu nhiệm của Đức Kitô dưới ánh sáng của suy tư về Chúa Thánh Thần,” trong quyển Chúa Thánh Thần và Phụng Vụ (Spirito Santo e liturgia) (Bộ sách Nghiên cứu về Phụng Vụ – Tân loạt, số 12), (Casale Monferrato, 1984) tr. 59–84.
[16] Về chủ đề mối tương quan giữa Giáo Hội và Phụng Vụ, một suy tư nền tảng là bài viết của S. Marsili, “La liturgia culto della Chiesa,” đăng trong Anamnesis, tập 1, tr. 107–136.
[17] x. A. Rizzi, “Những phạm trù văn hóa đương đại trong việc diễn giải thời gian,” trong Năm Phụng Vụ (Nghiên cứu về Phụng Vụ – Tập mới, số 11) (Casale Monferrato, 1983), tr. 11–22.
[18] x. M. Maggiani, “Một nghi lễ để cử hành hôm nay”, (Un rito per celebrare oggi), tr. 25.
THƯ MỤC THAM KHẢO
- VV., “Celebrare il mistero di Cristo. Manuale di liturgia” (Cử hành mầu nhiệm của Đức Kitô. Sách hướng dẫn phụng vụ), Tập 1: “La celebrazione: Introduzione alla liturgia cristiana” (Cử hành – Dẫn nhập vào phụng vụ Kitô giáo), BELS 73, Studi di liturgia, Tập mới, số 25, Rôma, 1993.
- Bonaccorso, G., “La liturgia: Celebrazione del mistero”, Phụng vụ: Cử hành mầu nhiệm, Padua, 1996.
- Borobio, D. (chủ biên), “La celebración en la iglesia”, (Việc cử hành trong Hội Thánh), Tập 1: “Liturgia y sacramentología”, (Phụng vụ và thần học bí tích), Salamanca, 1985.
- Fagerberg, W., “What Is Liturgical Theology? A Study in Methodology” (Thần học phụng vụ là gì? Một nghiên cứu về phương pháp luận), Collegeville, Minnesota, 1992.
- Grillo, A., “Teologia fondamentale e liturgia: Il rapporto tra immediatezza e mediazione nella rìlessione teologica.” (Thần học cơ bản và phụng vụ: Mối tương quan giữa sự trực tiếp và trung gian trong suy tư thần học), Caro salutis cardo – Studi, số 10, Padua, 1995.
- Kavanagh, A., Về thần học phụng vụ, New York, 1984.
- Lathrop, G., “On Liturgy Theology” (Một thần học phụng vụ), Minneapolis, 1993.
- López Martín, J., “En el Espíritu y la verdad”: Introducción a la liturgia (Trong Thần Khí và sự thật”: Dẫn nhập vào phụng vụ), Agape 5, Salamanca, 1987.
- Marsili, S., “La liturgia momento storico della salvezza” (Phụng vụ như khoảnh khắc lịch sử của ơn cứu độ), Anamnesis 1:33–156.
- Power, D. N., “Unsearchalbel Riches: The Symbolic Nature of Liturgy” (Sự phong phú khôn dò: Bản chất biểu tượng của phụng vụ), New York, 1984.
- Schmemann, A., “Introduction to Liturgical Theology”, (Dẫn nhập vào thần học phụng vụ), New York, 1986.
- Vagaggini, C., “Theological Dimensions of the Liturgy” (Những chiều kích thần học của phụng vụ), bản dịch của L. J. Doyle và W. A. Jurgens, Collegeville, Minnesota, 1976.
Vui lòng ghi: “Nguồn: Truyền Thông Tỉnh Dòng Ngôi Lời Việt Nam – ngoiloivn.net” khi đăng tải lại các bài viết từ trang này.