Chú Giải Tin Mừng Chúa Nhật XIV Thường Niên, Năm A (Mt 11,25-30)

0
9906

SỰ NGHỈ NGƠI ĐÍCH THỰC

Lm. Giuse Phạm Duy Thạch, SVD chú giải

 Bản văn và dịch sát nghĩa (Mt 11,25-30)

Việt Hy Lạp
25 Vào lúc ấy, Đức Giêsu đáp trả, nói rằng: Cha ơi! Con chúc tụng Cha, Chúa của trời và đất, vì Cha đã giấu những điều này khỏi những người khôn ngoan và thông minh, và mặc khải chúng cho những đứa trẻ.

26 Vâng! Thưa Cha, vì như thế, đó là niềm vui trước mặt Cha.

27 Tất cả đã được Cha tôi trao ban cho tôi, và không ai có thể biết được Con ngoại trừ Cha, không ai có thể biết Cha, ngoại trừ Con và kẻ mà Con muốn mặc khải cho.

28 Hãy đến cùng tôi tất cả những người mệt mỏi và những người bị đè nặng, chính tôi sẽ cho anh em nghỉ ngơi.

29 Hãy mang ách của tôi trên anh em, và hãy học từ tôi, vì tôi tử tế và khiêm hạ trong lòng, và anh em sẽ tìm được sự nghỉ ngơi cho tâm hồn của anh em.

30 Vì ách tôi dễ dàng và gánh tôi nhẹ nhàng.

25  Ἐν ἐκείνῳ τῷ καιρῷ ἀποκριθεὶς ὁ Ἰησοῦς εἶπεν· ἐξομολογοῦμαί σοι, πάτερ, κύριε τοῦ οὐρανοῦ καὶ τῆς γῆς, ὅτι ἔκρυψας ταῦτα ἀπὸ σοφῶν καὶ συνετῶν καὶ ἀπεκάλυψας αὐτὰ νηπίοις·

26 ναὶ ὁ πατήρ, ὅτι οὕτως εὐδοκία ἐγένετο ἔμπροσθέν σου.

27 Πάντα μοι παρεδόθη ὑπὸ τοῦ πατρός μου, καὶ οὐδεὶς ἐπιγινώσκει τὸν υἱὸν εἰ μὴ ὁ πατήρ, οὐδὲ τὸν πατέρα τις ἐπιγινώσκει εἰ μὴ ὁ υἱὸς καὶ ᾧ ἐὰν βούληται ὁ υἱὸς ἀποκαλύψαι.

28 Δεῦτε πρός με πάντες οἱ κοπιῶντες καὶ πεφορτισμένοι, κἀγὼ ἀναπαύσω ὑμᾶς.

29 ἄρατε τὸν ζυγόν μου ἐφ᾽ ὑμᾶς καὶ μάθετε ἀπ᾽ ἐμοῦ, ὅτι πραΰς εἰμι καὶ ταπεινὸς τῇ καρδίᾳ, καὶ εὑρήσετε ἀνάπαυσιν ταῖς ψυχαῖς ὑμῶν·

30 ὁ γὰρ ζυγός μου χρηστὸς καὶ τὸ φορτίον μου ἐλαφρόν ἐστιν. (Matt. 11:25-30 BGT)

 

Bối cảnh

Mt 11,25-30 là đoạn cuối cùng trong phần kể chuyện thứ ba (Mt 11 – 12), được sắp xếp trước bài giảng thứ ba, thường được gọi là bài giảng về dụ ngôn (Mt 13). Trong bối cảnh trực tiếp đoạn văn này là đoạn kết của một loạt trình thuật diễn tả sự nghi ngờ, thắc mắc và chối từ căn tính của Đức Giêsu, của những người đương thời. Chương 11 khởi đầu bằng sự kiện ông Gioan, lúc ấy đang ở trong tù, sai các môn đệ đến để hỏi Đức Giêsu là: “Thưa Thầy! Thầy có phải là Đấng phải đến hay không, hay chúng tôi phải đợi một ai khác” (Mt 11,3). Tiếp đó, Đức Giêsu cho biết thực tế về thế hệ này. Họ chối từ cả Đức Giêsu, một người đến, có ăn và uống như người khác, và ông Gioan Tẩy Giả, một người không ăn, không uống (Mt 11,18-19). Rồi, Người khiển trách các thành đã chứng kiến những phép lạ Người làm mà không hoán cải (Mt 11,20-24). Và cuối cùng, Đức Giêsu cho biết những người bé nhỏ mới có ơn đón nhận mặc khải của Chúa Cha (Mt 11,25-27) và mời gọi tất cả những ai mang gánh nặng nề, đến với Người, để được nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11,28). Nơi chương 12, chủ đề về sự chối từ cũng được tiếp tục. Tranh luận về việc giữ luật ngày Sabát (12,1-14); nhóm Pharisêu cho rằng Đức Giêsu trừ quỷ dựa trên thế quỷ vương Beelzebul (12,22-28).

 

Cấu trúc

Ý định mặc khải của Cha (cc.25-26)

Cha, Chúa của trời và đất

Giấu những điều này khỏi những người khôn ngoan và thông minh,

Mặc khải chúng cho những đứa trẻ.

Đó là niềm vui trước mặt Cha.

Tương quan mật thiết giữa Đức Giêsu và Cha (c.27)

Tất cả đã được Cha tôi trao ban cho tôi

Không ai có thể biết được Người Con ngoại trừ Cha

Không ai có thể biết Cha, ngoại trừ Con

Kẻ mà Con muốn mặc khải cho

Đến với …mang ách … học từ (cc.28-30):

Hãy đến cùng tôi tất cả những người mệt mỏi và những người bị đè nặng

Chính tôi sẽ cho anh em nghỉ ngơi

Hãy mang ách của tôi và hãy học từ tôi

Tôi tử tế và khiêm hạ trong lòng

Anh em sẽ tìm được sự nghỉ ngơi

Ách tôi dễ dàng và gánh tôi nhẹ nhàng

 

Một vài điểm chú giải

  1. Cha …Chúa của trời và đất: Trong Tin Mừng Nhất Lãm, có hai lần, Thiên Chúa công bố long trọng Đức Giêsu là Con: “Đây là Con yêu dấu của Ta” (Mt 3,17; 17,5). Đó là dịp Đức Giêsu chịu dìm trong sông Giorđan (Mt 3,13-17; Mc 1,9-11; Lc 3,21-22) và dịp Người biến hình trên núi cao (Mt 17,1-8; Mc 9,2-8; Lc 9,28-36). Địa vị “Con Thiên Chúa” của Đức Giêsu còn được nhiều loại nhân vật khác nhau nhìn nhận: Quỷ: “Hỡi Con Thiên Chúa, chuyện chúng tôi can gì đến ông” (Mt 8,29); Những người trong thuyền chứng kiến Đức Giêsu dẹp yên sóng gió: “Quả thật người này là Con Thiên Chúa” (Mt 14,33); Ông Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16); Người đại đội trưởng và những người canh giữ Đức Giêsu: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mt 27,54; Mc 15,39). Trong Tin Mừng Mátthêu, đặc biệt trong Bài giảng trên núi (Mt 5 – 7), rất nhiều lần Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha. Có ít nhất mười bảy lần trong bài giảng này, danh xưng Cha được lặp lại. Danh xưng Cha được phân biệt giữa các đại từ sở hữu: Cha của anh em (số nhiều) được lặp lại mười ba lần; Cha của anh (số ít) được dùng năm lần; Cha của chúng tôi được dùng một lần. Đức Giêsu gọi Chúa là “Cha Tôi” được lặp lại mười sáu lần. Mặc dù cùng một đối tượng là Cha, nhưng Đức Giêsu không bao giờ dùng “Cha của chúng ta” (bao hàm cả Đức Giêsu và các môn đệ). Điều này cho thấy Người có vị thế đặc biệt nhất trong tương quan với Cha, so với tương quan giữa các môn đệ và Cha. Có thể nói rằng tương quan Cha-Con của Đức Giêsu và Cha là cội nguồn và nền tảng cho tương quan Cha-Con của cộng đoàn môn đệ và Cha. Ga 20,17 là một ngoại lệ trong các sách Tin Mừng, khi Đức Giêsu đồng hóa: “Thầy đi lên cùng Cha của Thầy cũng là cha của anh em; cùng Thiên Chúa của Thầy cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17). Tin Mừng Gioan cũng cho thấy người Do Thái muốn giết Đức Giêsu vì Người dám nói Thiên Chúa là Cha của mình. Bởi lẽ, họ cho rằng khi nói như thế, Đức Giêsu tự coi mình ngang hàng với Thiên Chúa (Ga 5,18; Ga 10,33). Trong đoạn văn này, Đức Giêsu mặc khải hai điểm thần học rất quan trọng về Thiên Chúa: Thiên Chúa là Cha của Người và là Chúa của trời và đất (κύριε τοῦ οὐρανοῦ καὶ τῆς γῆς). Nghĩa là, Người vốn là chủ tể của toàn cõi vũ hoàn, nhưng Người cũng là Cha trong tương quang với Đức Giêsu. Trong bối cảnh này, Cha và chủ của trời đất, nắm toàn bộ quyền năng mặc khải. Người mặc khải cho ai tùy ý Người. Ý niệm này, nhìn rộng hơn, có thể gợi nhớ đến quyền năng sáng tạo được nói đến trong St 1,1 – 2,4a. Sách Ester diễn tả Chúa là chủ tể của mọi loài (Et 8,12r).
  2. Giấu “những điều này”: Đức Giêsu dùng đại từ số nhiều “những điều này” (ταῦτα) để diễn tả nội dung mặc khải của Cha. “Những điều này” trong bối cảnh này, trước hết, có thể là chính căn tính Mêsia của Đức Giêsu. Đó là căn tính mà ông Gioan Tẩy Giả, đang ở trong tù, đã sai các môn đệ đến hỏi Đức Giêsu rằng: “Ngài có phải là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải chờ ai khác?” (Mt 11,3). “Những điều này” cũng có thể là tất cả những phép lạ Đức Giêsu làm và dạy để bày tỏ căn tính của Người: “Người mù thấy được, người què đi được, người cùi được sạch, người điếc nghe được và người chết được trỗi dậy, người nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,5).[1] Ngay sau khi ông Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Đức Giêsu liền cho biết: “Anh thật có phúc vì không phải xác và máu mặc khải cho anh nhưng là Cha của Thầy, Đấng ở trên trời” (Mt 16,17).
  3. Những người khôn ngoan và thông minh[2]: Những người khôn ngoan và những người thông minh là những người bị Cha giấu mặc khải. Quay lại những đoạn văn trước đó những người không hiểu biết chính Đức Giêsu và sứ vụ của Người trước hết có thể kể đến là ông Gioan Tẩy Giả (Mt 11,2-6). Tuy nhiên, ông Gioan chỉ phân vân và đã sai các môn đệ đến hỏi Đức Giêsu, nên ông có thể biết nhận ra căn tính Mêsia của Đức Giêsu. Tiếp theo sau đó là các thành phần không nhận biết Đức Giêsu. “Thế hệ này” không đón nhận cả Đức Giêsu và ông Gioan Tẩy Giả (Mt 11,18-19). Thành Khoradin, Bếtsaiđa và Caphácnaoum đều bị khiển trách nặng nề vì không hoán cải khi chứng kiến các phép lạ Đức Giêsu làm (Mt 11,20-24). Những người khôn ngoan và những người thông minh cũng có thể là nhóm người cụ thể như nhóm Pharisêu và nhóm Kinh Sư.[3] Nhóm Pharisêu không ngừng chất vấn Đức Giêsu về luật giữ ngày Sabát, và bàn bạc để tìm cách giết Người (Mt 12,1-8.9-13). Họ xuyên tạc nhằm hạ uy tín của Đức Giêsu rằng: “Ông này không trừ được quỷ nếu không với sự trợ giúp của Beelzebul, tướng của các quỷ” (Mt 12,24; Cf. 9,34). Họ phản đối khi Đức Giêsu đến ăn uống với những người thu thuế và những người tội lỗi (Mt 9,10-13) Nhóm Kinh Sư cùng với nhóm Pharisêu chất vấn Đức Giêsu về truyền thống thanh tẩy tay trước khi ăn (Mt 15,1-9). Những nhóm người gây đau khổ và kết án Đức Giêsu là “các kỳ mục, các thượng tế, và kinh sư” (Mt 16,21; Cf. 20,18; 21,15; 26,57; 27,41).[4] Khi Đức Giêsu nói rằng Cha đã giấu “những điều này khỏi những người khôn ngoan và những người thông thái”, có thể hiểu theo hai khía cạnh. Thứ nhất, Cha là chủ thể tối cao của mặc khải thần linh. Thứ hai, thái độ tỏ ra mình hiểu biết hoặc cứng lòng của những người này làm cho họ không thể đón nhận mặc khải mà Cha trao.[5] Thái độ đó được Đức Giêsu mô tả trong bài giảng bằng dụ ngôn: “Nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ là vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu” (Mt 13,13). Đó là ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia: “Các ngươi sẽ nghe chăm chú mà không hiểu, sẽ nhìn kỹ càng mà không thấy, vì lòng của dân này trở nên đần độn, với đôi tai của họ, họ nghe rất khó và mắt họ nhắm lại, kẻo họ thấy bằng mắt và nghe bằng tai và hiểu bằng tim và quay trở lại và Ta chữa lành họ” (Mt 13,14-15).
  4. Những đứa trẻ … những người mệt mỏi và những người bị đè nặng: Đối tượng được Cha mặc khải là “những đứa trẻ”. Danh từ “νηπίοις” là những đứa trẻ, những người ngây thơ, những người không có kinh nghiệm, những người đơn giản. Những đứa trẻ là những người trong mắt của thế gian, thì yếu đuối và giản đơn, nhưng trước Chúa, họ là những người được chọn.[6] Trước đó, trong bài giảng về sứ vụ, các môn đệ được đồng hóa với những người bẻ nhỏ: “Ai cho một trong những người nhỏ bé này chỉ một chén nước lạnh vì danh nghĩa của người môn đệ, amen, Thầy bảo anh em, người ấy không thể mất phần thưởng của mình” (Mt 10,42). Trong bài giảng bằng các dụ ngôn, Đức Giêsu cho thấy các môn đệ được cho biết các bí mật của Nước Trời, nhưng họ thì không (Mt 13,11). Những đứa trẻ trong bối cảnh này có thể hiểu là các môn đệ, và những người tin vào Đức Giêsu.[7] Những người có thể đón nhận Đức Giêsu và giáo huấn của Người, nghĩa là, đón nhận mặc khải của Cha, có thể được xem như là những đứa trẻ. Danh xưng này không mô tả về thể lý cho bằng mô tả về tinh thần. Đó là những con người đơn sơ, không cậy vào kiến thức của mình, và mở lòng ra với mặc khải của Chúa. Hình ảnh những đứa trẻ trong đoạn này song đối với hình ảnh những người mệt mỏi và những người bị đè nặng. Nhóm người này được mời gọi đến với Đức Giêsu để học từ nơi Người và tin nhận Người.
  5. Cái ách[8] và “gánh nặng”: Những người mệt mỏi và bị đè nặng, nối kết với “cái ách” cho thấy rằng vật thể làm cho họ mệt mỏi và bị đè nặng là “cái ách”. “Cái ách” (τὸν ζυγόν) nghĩa đen là một dụng cụ nối hai con vật với nhau để chúng có thể làm việc cùng nhau. Tuy nhiên, trong Thánh Kinh, danh từ này thường được dùng theo nghĩa ẩn dụ để diễn tả những đòi hỏi nghiêm khắc, những quy tắc nặng nề.[9] Tác giả Phaolô thường nói về “ách nô lệ”: “Vì sự tự do Đức Kitô đã làm giải thoát chúng ta; vì thế, hãy đứng vững và đừng khuất phục ách nô lệ nữa” (Gl 5,1; 1 Tm 6,1). Trong bài giảng tại Công Đồng Jêrusalem, ông Phêrô đã nhấn mạnh đến sự nặng nề của lề luật: “Vì vậy, giờ đây tại sao anh em lại thử thách Thiên Chúa bằng cách đặt lên cổ của các môn đệ một cái ách mà cả cha ông chúng ta và chúng ta không thể mang nổi” (Cv 15,10). “Cái ách” được đặt song song với “gánh nặng”. Đức Giêsu mô tả “ách của Người dễ dàng và gánh nặng của Người thì nhẹ nhàng”. Tính từ “χρηστὸς” thường được chuyển ngữ là “êm ái” (CGKPV; NTT). Tính từ này trong tiếng Hy Lạp có nhiều nghĩa: Tốt, dễ dàng, thoải mái, phù hợp, hữu ích. “Êm ái” xem ra phù hợp với danh từ “cái ách”, nhưng lại không sát nghĩa. “Dễ dàng” hay “thoải mái” có thể là cách hiểu phù hợp hơn một khi “cái ách” được hiểu theo nghĩa biểu tượng là lề luật, quy tắc. “Gánh nặng nhẹ nhàng” của Đức Giêsu là giải pháp cho “những người đang bị đè nặng” mà Người kêu mời đến cùng Người. Tính từ “nhẹ nhàng” (ἐλαφρόν), là giải pháp cho danh từ “những người bị đè nặng”, có lẽ ngụ ý là dễ mang, vừa sức, có thể mang được. Đức Giêsu không giảm thiểu Luật, hay đòi hỏi thấp hơn, nhưng Người làm cho nó hợp tình, hợp lý, và có hồn hơn, và nhất là Người cùng mang gánh với “những người mệt mỏi và bị đè nặng”.[10] “Gánh nặng nhẹ nhàng” của Đức Giêsu, trong bối cảnh Tin Mừng Mátthêu, có thể đối lại với “gánh nặng nặng nề” (φορτία βαρέα) của các Kinh Sư và những người Pharisêu: “Họ bó những gánh nặng nặng nề và đặt lên vai người ta, nhưng chính họ lại không muốn di chuyển chúng bằng những ngón tay của họ” (Mt 23,4). Đức Giêsu của tác giả Luca mô tả rõ ràng hơn về gánh nặng mà các nhà thông luật, đặt lên vai người khác: “Các ngươi chất lên người ta gánh nặng khó có thể mang, còn các ngươi không đụng vào những gánh nặng ấy dù bằng một ngón tay” (Lc 11,46). Những gánh nặng nặng nề này của các Kinh Sư và những người Pharisêu, trong bối cảnh trực tiếp, được minh họa cụ thể bằng những cuộc tranh luận cụ thể đầu chương 12: Các môn đệ bứt lúa ăn vào ngày sabát và bị những người Pharisêu chỉ trích là “làm điều không được làm trong ngày sabát” (Mt 12,1-8); Tranh luận về việc có được phép chữa bệnh trong ngày sabát không (Mt 12,9-14). Đó là hai trong số nhiều cuộc tranh luận về Luật mà nhóm Kinh Sư và những người Pharisêu chất vấn Đức Giêsu. Theo cách lý giải của Đức Giêsu, rõ ràng, “ách” (cách áp dụng luật) của Đức Giêsu dễ chấp nhận và có ý nghĩa hơn. Người cho thấy vua Đavít trong lúc đói đã vào đền thờ và ăn bánh mà chỉ có các tư tế được ăn (12,3-4). Nếu người ta không do dự kéo con chiên bị sa xuống hố lên trong ngày sabát thì người ta càng phải cứu chữa bệnh tật cho con người (12,11-12).
  6. Tất cả đã được Cha tôi trao ban cho tôi: Lời khẳng định “tất cả đã được ban cho tôi”, đi theo sau mặc khải về căn tính “Chúa trời và đất” của Cha, cho thấy rằng một trong những điều Cha ban cho là quyền năng “tỏ lộ” hay “che giấu” của Chúa Cha. Lời khẳng định này còn cho thấy Đức Giêsu có đầy đủ quyền năng của Thiên Chúa để giảng dạy (Mt 5,21-46) cũng như làm những phép lạ (4,23; 8,3.13-17; 9,22); tha thứ tội lỗi (9,1-8).[11] Sau khi Phục Sinh, Đức Giêsu công bố cùng các môn đệ “Thầy đã được ban tất cả quyền trên trời và dưới đất, vì vậy hãy đi và làm cho muôn nước thành các môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Linh” (Mt 28,18-19). Đức Giêsu có toàn quyền mặc khải (rao giảng và làm phép lạ), Người trao ban quyền ấy cho các môn đệ sau Phục Sinh để họ cũng tiếp nối sứ vụ của Người.
  7. Chỉ Cha biết Con … chỉ Con biết Cha… kẻ mà Người Con muốn mặc khải: Lời này cho thấy kiến thức độc nhất vô nhị của Đức Giêsu về Cha. Đức Giêsu chính là mặc khải trọn vẹn và đầy đủ của Chúa Cha. Khi khẳng định tương quan Cha-Con với Chúa, Đức Giêsu cho biết căn tính thần linh của Người. Người không chỉ là Đấng Mêsia vương đế mà dân Israel hằng mong chờ, mà còn là Con Thiên Chúa, và là Thiên Chúa. Thần học Tin Mừng thứ tư, được soạn thảo muộn thời hơn các Tin Mừng Nhất Lãm, đã khẳng định rõ ràng trong Lời Tựa: “Thiên Chúa, chưa ai thấy bao giờ, nhưng Con Một, vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở trong lòng Cha, Đấng ấy đã tỏ lộ ra” (Ga 1,18). Đức Giêsu chính là hiện thân của Cha, đối tượng duy nhất mà người ta phải “đến cùng” và “học từ”. Chỉ có những người mà Con muốn mặc khải cho thì mới có thể hiểu biết Cha. Đức Giêsu của tác giả Gioan còn khẳng định rằng: “Tôi là con đường là sự thật và là sự sống, không ai có thể đến với Cha, trừ khi qua Tôi” (Ga 14,6). Đức Giêsu, Con, muốn mặc khải cho ai tùy ý, nhưng trong bối cảnh này, đối tượng mà Người mặc khải có lẽ cùng một đối tượng với Cha. Đó là “các trẻ em” (những người đơn giản). Đó cũng có thể là tất cả những ai đang mệt mỏi, và những người bị đè nặng, mà Người sẽ mời gọi ngay sau đó. Từ chối, không đón nhận Đức Giêsu cũng có nghĩa là không thể biết rõ Thiên Chúa.
  8. Hãy đến …hãy mang ách … hãy học: Đó là những mệnh lệnh mà Đức Giêsu mời gọi những đối tượng là “tất cả những người đang mệt mỏi” và “những người đang bị đè nặng”. Sau khi công bố rằng mình được Cha ban tất cả và khẳng định chỉ một mình Người (Con) biết Cha, Đức Giêsu mời gọi những người mà Người muốn mặc khải đến cùng Người. Cụm giới từ “cùng tôi” (hãy đến cùng tôi), tính từ sở hữu “của tôi” (ách của tôi, gánh nặng của tôi), “từ nơi tôi” (hãy học từ nơi tôi), chủ từ nhấn mạnh “chính tôi” (κἀγὼ), tất cả nhằm trung tâm hóa Đức Giêsu trong những hoạt động này. “Đến cùng” là hành động đầu tiên, tiếp theo là lời mời gọi “mang ách của tôi” đi song song với hành động “học từ nơi tôi”.[12] Nếu hiểu cái ách theo nghĩa biểu tượng là Luật, hay lời chỉ dẫn, thì hành động “học từ nơi tôi” không thể tách rời khỏi hành động “mang ách của tôi”. Nói cách khác, “mang ách”, đồng nghĩa với việc “học từ nơi” Đức Giêsu, để hiểu và đón nhận những chỉ dẫn của Người. Cặp động từ song song này diễn tả mục đích của việc “đến cùng”. Nếu như hành động “đến cùng” không được tiếp nối bằng hai hành động bổ túc cho nhau (mang ách và học từ), thì không mang lại bất cứ một kết quả tích cực nào. Nhiều người đến cùng Đức Giêsu, nhưng chỉ có những ai “mang ách” của Người và “học từ” Người mới thành môn đệ.[13] Lời mời gọi của Đức Giêsu họa theo lời dạy khôn ngoan của sách Huấn Ca: “Hãy tra cổ vào ách, và đón nhận giáo huấn vào tâm hồn; giáo huấn này, các bạn có thể tìm thấy ngay ở bên cạnh mình. Hãy đưa mắt nhìn rằng tôi mệt mỏi chút ít, và chính tôi tìm thấy nghỉ ngơi dồi dào” (Hc 51,26-27).[14]
  9. Chính tôi làm cho anh em phục hồi sinh lực …tìm được sự nghỉ ngơi cho linh hồn: Nhìn vào cấu trúc, chúng ta có thể thấy xen lẫn giữa những hành động “đến cùng tôi”, “mang ách của tôi”, và “học từ tôi”, được xen lẫn bởi hiệu quả tích cực: “Chính tôi sẽ làm cho anh em phục hồi sinh lực” // “anh em sẽ tìm được sự phục hồi sinh lực cho tâm hồn anh em”. Động từ “ἀναπαύω” vừa có nghĩa là “nghỉ ngơi” vừa có nghĩa là “hồi phục sinh lực”, “làm tươi mới” con người nhờ được nghỉ ngơi. “Làm cho nghỉ ngơi”, hay “làm cho hồi phục sinh lực” là giải pháp tốt nhất dành cho “những người đang mệt mỏi”. Đức Giêsu làm cho họ được nghỉ ngơi, và họ tìm được sự nghỉ ngơi, phục hồi sinh lực cho tâm hồn. Sự nghỉ ngơi và phục hồi sinh lực ở đây có lẽ không phải về thể lý, đúng hơn, đó là một sự phục hồi về sức sống tinh thần, một sức sống của người sống theo Torah của Đức Giêsu, Torah kiện toàn, hoàn thiện Torah của ông Môsê (x. Mt 5,21-46). “Mang ách” và “học từ nơi Giêsu” giúp người ta nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện (Mt 5,48), và vươn đến sự công chính vượt hơn sự công chính của các Kinh Sư và những người Pharisêu (Mt 5,20). Sự nghỉ ngơi đích thực là sự nghỉ ngơi bên Chúa trong Nước Trời.[15]
  10. Tôi hiền lành (πραΰς) và khiêm hạ (ταπεινὸς) trong lòng: Mệnh đề phụ chỉ lý do, được bắt đầu bằng liên từ “ὅτι” (bởi vì), giải thích lý do tại sao các môn đệ phải “mang ách của” Đức Giêsu và “học từ nơi” Người. Ông Môsê được mô tả là “người đàn ông rất khiêm nhường, hơn tất cả mọi người trên mặt đất” (Ds 12,3). Ngôn sứ Dacaria nói đến hình ảnh một Đấng Mêsia vương đế “đang đến, công chính và cứu độ, Người khiêm nhường và cưỡi trên một con lừa, và một con lừa con” (Dcr 9,9). Hình ảnh này được tác giả Mátthêu áp dụng cho Đức Giêsu (Mt 21,5). Tính từ “πραΰς” có nhiều nghĩa: Tử tế, tốt lành, hiền lành. Người hiền lành được chúc phúc vì họ sẽ được “thừa kế đất”: Phúc cho những người hiền lành vì họ sẽ được thừa kế miền đất (Mt 5,4). Học được sự hiền lành của Đức Giêsu cũng có nghĩa là sống mối phúc mà Người dạy và được thừa hưởng miền đất Nước Trời.

 

Bình luận tổng quát

Giữa bối cảnh những xung đột và chống đối từ nhiều thành phần, đặc biệt là giới lãnh đạo Kinh Sư và những người Pharisêu. Đức Giêsu cất lên lời cảm tạ và diễn tả thực tế của hai thái độ khác nhau của thính giả trước sứ vụ của rao giảng của Người: Đón nhận và chối từ. Đón nhận hay chối từ đều tùy thuộc vào trong uy quyền mặc khải của Cha. Cha đã giấu những chân lý về Cha, cũng như căn tính của Đấng Mêsia, được thể hiện qua những lời giảng dạy và phép lạ của Người; nhưng Cha lại mặc khải cho những người được gọi là “các trẻ em”. Cha là chủ tể, là Chúa của trời và đất, và Cha cũng là Cha của Đức Giêsu. Tương quan Cha-Con của Đức Giêsu và Cha là nền tảng cho tương quan Cha-con giữa Thiên Chúa và các môn đệ nói riêng, hay các tín hữu nói chung. Đức Giêsu không chỉ là Đấng Mêsia vương đế như là người Israel hằng mong đợi. Người bật mí rằng không ai biết Người ngoại trừ Cha và không ai biết Cha ngoại trừ Người và kẻ mà Người muốn tỏ lộ cho. Đó là mặc khải quan trọng về căn tính thần linh của Người. Người cũng khẳng định rằng Cha đã trao ban tất cả cho Người, bao gồm quyền năng mặc khải, quyền năng giảng dạy, chữa lành, và cứu độ. Chính vì thế, Người có đủ thẩm quyền để mời gọi những ai “mệt mỏi” và “những ai bị đè nặng” đến với Người. Khi đến với Người, người ta sẽ được nghỉ ngơi và phục hồi sinh lực, sinh lực của người con Chúa đích thực. Những ai mệt mỏi và bị đè nặng bởi hệ thống Lề Luật được các lãnh đạo Do Thái áp dụng thì họ cần phải mang lấy “ách của Đức Giêsu”, cách thức áp dụng Lề Luật của Người và “học từ Người”, một đức vua hiền lành, tử tế, tốt lành và khiêm hạ.  “Ách dễ dàng” của Đức Giêsu, lối giải thích Luật mới mẻ của Đức Giêsu được minh học bằng hai ví dụ đầu chương 12. Theo Đức Giêsu, Luật sẽ không cấm đoán người ta chữa bệnh trong ngày sabát; Luật cũng có thể cho các môn đệ bứt lúa ăn khi họ đang đói. Đức Giêsu giúp cho người ta vươn đến mức độ hoàn hảo nhờ đi vào tương quan cha-con với Chúa chứ không phải chỉ giữ những nguyên tắc luật lệ cách hình thức. “Gánh năng nhẹ nhàng” của Đức Giêsu sẽ phù hợp với những người đang bị đè nặng. Người không những dạy cho người ta những điều hợp lý, thấu tình, đạt lý, mà Người còn ghé vai vác gánh nặng với con người. Điều mà Đức Giêsu hứa ban cho những “trẻ em”, “những người mệt mỏi” và “những người đang bị đè nặng” không phải là sức khỏe về thể lý, nhưng là sức sống về tâm linh. Sự nghỉ ngơi trọn vẹn là sự nghỉ ngơi với Chúa trong Nước Trời; Sự phục hồi sức sống đúng nghĩa là làm cho người ta sống xứng đáng là còn cái Chúa. Những người sống đúng nghĩa, nói theo ngôn ngữ của Đức Giêsu trong “Bài giảng trên núi” là những người “có sự công chính vượt hơn sự công chính của các Kinh Sư và những người Pharisêu” hay “trở nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện”.

 Lm. Jos. Phạm Duy Thạch, SVD

Chú thích:

[1] “The very unspecific term “these things” must be understood in context of the whole revelatory process of Jesus’ ministry, both the truths he has taught and the truth about who he himself is” [R.T. FRANCE, The Gospel of Matthew (NICNT; Grand Rapids 2007) 443].

[2] “The ‘wise’ of Jesus’ day had careful rules for interpreting the Bible and often rested in the security of the academic consensus of their circle; they prided themselves on their knowledge of traditional interpretations and sayings of the wise who had gone before them; they also emphasized practical piety” [C.S. KEENER, The Gospel of Matthew. A Socio-Rhetorical Commentary (Grand Rapids – Cambridge 2009) 346].

[3] W.D. DAVIES – D.C. ALLISON, A critical and exegetical commentary on the Gospel according to Saint Matthew (ICC; London – New York 2004) II, 275.

[4] “The phrase most clearly refers to scribes and Pharisees who reject Jesus. But given the context (Matthew 11-13) in which the rejection of Jesus is the major theme, it could also include others (as, for example, the inhabitants of the unrepentant cities in Matt 11:20-24). What God has hidden &om them is the significance of Jesus’ deeds and the presence of God’s kingdom in his ministry (11:1-19)” [D.J. Harrington, The Gospel of Matthew (SP1; Collegeville 1997) 167].

[5] “The basis of this division is not an arbitrary selection, but the fundamental principle of divine revelation, that it comes to those who are open to it, but finds no response with those who think they know better; with the “wise and intelligent” it is wasted like seed sown beside the path (13:4, 19)” (R.T. FRANCE, The Gospel of Matthew, 443).

[6] “The ‘babes’ are those who, in the eyes of the world, are weak and simple, but before God they are the elect” (W.D. DAVIES – D.C. ALLISON, Matthew, 275)

[7] “Those who receive the revelation are described as nepioi (“infants”), which seems to be a way of referring to the disciples of Jesus both during his earthly ministry and in the Matthean community. They are contrasted with “the wise and understanding” (D.J. Harrington, The Gospel of Matthew, 169).

[8] “In Biblical and Jewish tradition, a yoke is often a metaphor for religious instruction. In some cases, the yoke represents for the commandments of the Torah that define what it means to live in a covenant relationship with the Lord (Acts 15:10; Gl 5:1). In others, it represents the counsel of Divine Wisdom that guide men and women toward pious and prosperous living (Sir 6:25;51:26)” [C. Mitch – E. Sri, The Gospel of Matthew (CCSS; Grand Rapids 2010) 161]; D.J. Harrington, The Gospel of Matthew, 168.

[9] “In 23:4 ‘heavy, cumbersome burdens on people’s shoulders’ is a metaphor for the legal and ethical demands made by the scribes and Pharisees. The metaphor of a yoke, which in the OT commonly denoted social or political oppression (Gen 27:40; Exod 6:6–7; 1 Kgs 12:4–14; Isa 58:6, 9; Jer 28:2–14, etc.) and had a strongly pejorative sense, came to be used in later Jewish literature for the demands of the law upon people’s obedience, usually understood in a positive sense, an obligation freely accepted by “putting on the yoke of the Torah” (R.T. FRANCE, The Gospel of Matthew, 448).

[10] “Jesus’ yoke is not lighter because he demands less (5:20), but because he bears more of the load with the burdened (23:4; cf. 1 Jn 5:3). In contrast to unconcerned religious teachers who prided themselves on their own position (23:4–7; 24:49), Jesus was going to lay down his life for the sheep (20:25–28)” (C.S. KEENER, The Gospel of Matthew, 349).

[11] C. Mitch – E. Sri, The Gospel of Matthew, 160.

[12] “The only requirement is that those who come to him must recognize their need for help and be willing to accept his yoke and learn from him. This is an invitation which the ‘wise and intelligent’ may well choose to ignore, while the ‘little children’ come willingly” (R.T. FRANCE, The Gospel of Matthew, 448).

[13] “This is a call to discipleship, to submit oneself to the instruction of the Messiah” (C. Mitch – E. Sri, The Gospel of Matthew, 161).

[14] “Jesus as, in Matthew’s view, himself taking the place of the personified divine Wisdom, hidden from human cleverness, but able to communicate to those who seek her the truth about God which she alone truly understands. As the focus moves in vv. 28–30 from knowing the truth to finding rest, the echoes of Wisdom literature become even clearer. The most obvious source25 for Jesus’ language here is Sir 51:23–27 (cf. Sir 6:23–30), in which the sage invites the unlearned to come near to him to find Wisdom, to put their necks under Wisdom’s yoke so that their souls receive instruction, and informs them that in this way he himself, having toiled only a little, has found much rest. The echoes of the Greek text are clear: the words for “to me,” “toil,” “yoke,” “find,” “rest” and “soul” are all the same” (R.T. FRANCE, The Gospel of Matthew, 447).

[15]  “This is a more than a promise of everlasting repose in the life to come. It also a promise of inner peace in this life, the kind of peace that quiets the mind and heart and surpasses human understanding (Phl 4:7)” (C. Mitch – E. Sri, The Gospel of Matthew, 160-161).

Bài trướcLỜI SỐNG (Thứ Bảy Tuần 13 TN)
Bài tiếp theoLời Chúa + Bài giảng Chúa Nhật 14 Thường Niên – Năm A