LỜI SỐNG (Chúa Nhật, Tuần 3 Mùa Chay – A)

0
136

Bài đọc 1: Xh 17,3-7 ; Bài đọc 2: Rm 5,1-2.5-8

Tin Mừng: Ga 4,5-42

5 Khi ấy, Đức Giê-su đến một thành xứ Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giu-se.

6 Ở đấy, có giếng của ông Gia-cóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.

7 Có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giê-su nói với người ấy : “Chị cho tôi xin chút nước uống !”

8 Lúc đó, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn.

9 Người phụ nữ Sa-ma-ri liền nói : “Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao ?” Quả thế, người Do-thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri.

10 Đức Giê-su trả lời : “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị : ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống.”

11 Chị ấy nói : “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống ?

12 Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này ? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy.”

13 Đức Giê-su trả lời : “Ai uống nước này, sẽ lại khát.

14 Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.”

15 Người phụ nữ nói với Đức Giê-su : “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.”

16 Người bảo chị ấy : “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây.”

17 Người phụ nữ đáp : “Tôi không có chồng.” Đức Giê-su bảo : “Chị nói : ‘Tôi không có chồng’ là phải, 18 vì chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng.”

19 Người phụ nữ nói với Người : “Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ…

20 Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này ; còn các ông lại bảo : Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa.”

21 Đức Giê-su phán : “Này chị, hãy tin tôi : đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem.

22 Các người thờ Đấng các người không biết ; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái.

23 Nhưng giờ đã đến -và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế.

24 Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.”

25 Người phụ nữ thưa : “Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.”

26 Đức Giê-su nói : “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.”

27 Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế, không ai dám hỏi : “Thầy cần gì vậy ?” Hoặc “Thầy nói gì với chị ấy ?”

28 Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta : 29 “Đến mà xem : có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao ?”

30 Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.

31 Trong khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng : “Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa.”

32 Người nói với các ông : “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết.”

33 Các môn đệ mới hỏi nhau : “Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng ?”

34 Đức Giê-su nói với các ông : “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.

35 Nào anh em chẳng nói : Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt ? Nhưng này, Thầy bảo anh em : Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái !

36 Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng.

37 Thật vậy, câu tục ngữ “kẻ này gieo, người kia gặt” quả là đúng !

38 Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả ; còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ.”

39 Có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đó đã tin vào Đức Giê-su, vì lời người phụ nữ làm chứng : ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm.

40 Vậy, khi đến gặp Người, dân Sa-ma-ri xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày.

41 Số người tin vì lời Đức Giê-su nói còn đông hơn nữa.

42 Họ bảo người phụ nữ : “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian.”

—– o0o —–

Suy niệm

NƯỚC SỰ SỐNG (Tu sĩ Giuse Trần Minh Kiểm, SVD)

Bị cơn khát dày vò, dân Do thái đã đổ tất cả tội lỗi lên ông Môsê vì ông đã đưa họ vào nơi hoang địa khô cháy. Vì thế, họ đòi đem vị lãnh tụ khả kính này ra ném đá (Xh 17,3-7).

Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết, ngoài cơn khát tự nhiên là khát nước, con người còn có những khao khát mà không có gì trên thế gian này có thể làm cho họ no thoả. Đây là cơn khát về mặt tâm linh, nên chẳng có thứ nước nào trên đời có thể làm dịu bớt. Người phụ nữ xứ Samari mưu tìm hạnh phúc qua sáu đời chồng, chị miệt mài đi tìm hạnh phúc, cũng giống như đi lấy nước. Ngày nào chị cũng phải lặn lội tìm đến giếng nước xa, múc cho đầy vò, rồi ngày hôm sau lại khát, và cứ thế tiếp tục đội vò đi lấy nước… Một ngày như mọi ngày, vẫn khát khao. Cha Anthony de Mello nhận định như sau: “Việc thỏa mãn dục vọng không bao giờ giải thoát ta khỏi dục vọng. Trái lại, nó còn tạo thêm những dục vọng khác mãnh liệt hơn. Để rồi cái vòng luẩn quẩn: khát khao – thoả mãn, thoả mãn – khát khao… cứ tiếp diễn mãi không cùng”. Chính vì thế, Đức Giêsu đã khẳng định với người phụ nữ Samari rằng: “Ai uống nước này sẽ còn khát. Nhưng ai uống nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho, sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”.

Nhờ niềm tin vào  Đức  Giêsu,  chị đã thật sự cảm nếm “nước hằng sống”, nguồn nước đem lại cho chị sự hy vọng, lạc quan, và niềm vui sau những ngày đen tối. Không phải một mình chị, mà có rất nhiều người Samari đã tin vào Đức Giêsu và làm chứng rằng: “Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian.” Chị đã nhận ra chính Đức Giêsu là Đấng ban sự sống, chị đã không giữ lại cho riêng mình, nhưng chị đã hân hoan đi loan bao cho mọi người, để họ cùng tin nhận và được hưởng nước hằng sống.

Lạy Chúa, xin thêm sức cho con, vì “chỉ trong Thiên Chúa, hồn con mới được nghỉ ngơi an bình” (Tv. 61,2).


 

KHÁT KHAO SÂU THẲM (Lm. G.B. Nguyễn Hữu Duy, SVD)

Bài trướcBÀI GIẢNG (Chúa Nhật, Tuần 3 Mùa Chay – A)
Bài tiếp theoChú Giải Tin Mừng Chúa Nhật III Mùa Chay, Năm A (Ga 4,4-43)