Bài Ðọc I: Cv 1, 1-11
“Trước sự chứng kiến của các ông, Người lên trời”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Hỡi Thêôphilê, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những điều Ðức Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, cho đến ngày Người lên trời, sau khi căn dặn các Tông đồ, những kẻ Người đã tuyển chọn dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần. Sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày và đàm đạo về Nước Thiên Chúa. Và trong một bữa ăn, Người đã ra lệnh cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa. Người nói: “Như các con đã nghe chính miệng Thầy rằng: Gioan đã làm phép rửa bằng nước, phần các con, ít ngày nữa, các con sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”.
Vậy các kẻ có mặt hỏi Người rằng: “Lạy Thầy, có phải đã đến lúc Thầy khôi phục Nước Israel chăng?” Người bảo họ rằng: “Ðâu phải việc các con hiểu biết thời gian hay kỳ hạn mà Cha đã ấn định do quyền bính Ngài. Nhưng các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất”. Nói xong, Người được cất lên trước mắt các ông, và một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông.
Ðang khi các ông còn ngước mắt lên trời nhìn theo Người đang xa đi, thì bỗng có hai người mặc áo trắng đứng gần các ông và nói rằng: “Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời? Ðức Giêsu, Ðấng vừa lìa các ông mà lên trời, sẽ đến cùng một thể thức như các ông đã thấy Người lên trời”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 46, 2-3. 6-7. 8-9
Ðáp: Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng bừng, Chúa ngự lên trong tiếng kèn vang (c. 6).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hết thảy chư dân, hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa tiếng reo vui! Vì Chúa là Ðấng Tối cao, khả uý, Người là Ðại Ðế trên khắp trần gian. – Ðáp.
2) Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng bừng, Chúa ngự lên trong tiếng kèn vang. Hãy ca mừng, ca mừng Thiên Chúa’ hãy ca mừng, ca mừng Vua ta! – Ðáp.
3) Vì Thiên Chúa là Vua khắp cõi trần gian, hãy xướng ca vịnh mừng Người. Thiên Chúa thống trị trên các nước, Thiên Chúa ngự trên ngai thánh của Người. – Ðáp.
Bài Ðọc II: Ep 1, 17-23
“Người đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời”.
Trích thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, xin Thiên Chúa của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Cha vinh hiển, ban cho anh em thần trí khôn ngoan và mạc khải, để nhận biết Người, xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt, để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi, thế nào là sự phong phú gia nghiệp vinh quang nơi các thánh, và thế nào là quyền năng vô cùng lớn lao của Người đối với chúng ta, là những kẻ tin, chiếu theo hành động của sức mạnh quyền năng Người, công việc mà Chúa đã thực hiện trong Ðức Kitô, tức là làm cho Ngài từ cõi chết sống lại, và đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời, vượt trên mọi cấp trật, các lãnh thần, quyền thần, dũng thần, và quản thần, vượt trên mọi danh hiệu được xưng hô cả đời này lẫn đời sau. Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài, và là sự sung mãn của Ðấng chu toàn mọi sự trong mọi người.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mt 28, 19 và 20
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. – Alleluia.
Phúc Âm: Mc 16, 15-20
“Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời”.
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh”.
Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa.
Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.
Ðó là lời Chúa.
Bài giảng chủ đề:
XÂY DỰNG THIÊN QUỐC (Lm Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Phú, SVD)
Hoàn thành sứ vụ được trao phó tại thế gian, Đức Giêsu từ biệt các môn đệ để trở về cùng Thiên Chúa Cha. Trầm lắng, đượm buồn, luyến tiếc và thậm chí nước mắt là điều khó tránh khỏi. Nhưng nỗi buồn rồi sẽ trở thành niềm vui. Chúa đi nhưng lại vẫn ở cùng nơi Lời, nơi Thánh Thể, nơi cộng đoàn hiệp nhất yêu thương và nơi tha nhân. Chúa đi và Thần Khí được sai đến. Thậm chí ta có thể nói, Chúa thực sự không đi lên trời cao nhưng đã kéo trời cao xuống tận nơi đất thấp, kéo vương quốc của Thiên Chúa đến với con người. Bổn phận của chúng ta là làm cho nước Chúa trở nên rộng lớn và thịnh vượng.
1. Cuộc chia ly ngày ấy
“Đức Giêsu được đưa lên trời” (Mc 16,19) là khoảnh khắc diễn ra trong khung thời gian (50 ngày) giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Hiện Xuống. Bầu khí không thuần vui mừng đối với các tông đồ như chúng ta có hôm nay khi mừng lễ Thăng Thiên. Niềm tin của các ông vào Đức Giêsu vốn dĩ đã mong manh, vì các ông mù mờ về con người và đường hướng của Thầy, và cũng vì đó mà mù mờ luôn cả đường hướng của chính mình, càng trở nên mong manh hơn khi Thầy bị án tử một cách đầy nhục nhã. Dù Thầy đã sống lại, đã hiện ra với nhiều người ở những thời khắc khác nhau, nhưng xem ra sự chán nản, hồ nghi và cả thất vọng đã chiếm hết tâm trí của các ông để rồi kẻ thì bỏ về quê (x. Lc 24,13-32), kẻ khác quay lại với nghề cũ (x. Ga 21,3). Và hôm nay, khi Thầy được cất lên trời, niềm tin của các ông trở nên mong manh hơn bao giờ hết, có lẽ chỉ “một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi.” Thầy ra đi khi Đấng Bảo Trợ chưa đến, Thiên Chúa như đã vắng bóng khỏi cuộc sống của con người, nên hoang mang là tâm trạng khó tránh khỏi. Nhưng có lẽ trong cái khoảnh khắc chới với đó, các ông đã không quên lời của Thầy năm xưa để nuôi trong mình ánh sáng của hi vọng: “Thầy bảo thật anh em: anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” (Ga 16,20). Thầy còn khẳng định: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em”, vì như vậy thì Đấng Bảo Trợ mới đến, Người là Thần Khí sự thật, nên khi đến Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn (x. Ga 16,7-13), mà chính sự thật sẽ giải thoát con người (x. Ga 8,32). Chỉ cần kiên trung đợi chờ, chỉ cần mở lòng mình, chỉ cần có tâm hồn thiện chí, chỉ cần hiện thực hóa những lời trăn trối của Thầy, thiên đàng sẽ chiếm hữu trần gian.
2. “Ở đâu có hai hay ba người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20)
Một mệnh đề rất ngắn gọn nhưng như vẽ ra cho người nghe một bức tranh tuyệt mỹ, tràn đầy sức sống, tràn đầy nối kết hiệp thông, tràn đầy sức mạnh, tràn đầy niềm vui và chan hòa tình yêu thương. Đây là bức tranh lý tưởng về một vương quốc mà Thiên Chúa muốn gầy dựng. Vương quốc đó sẽ mạnh và đẹp khi và chỉ khi có vị vua là Thiên Chúa ngự trị bởi Ngài là Chân, Thiện và Mỹ, là sức mạnh và là tình yêu. Ngài đầy lòng quảng đại và thương xót, luôn thương yêu hết mực từng con dân. Tuy nhiên, để Ngài là vua, để Ngài ở với và ở cùng, các con dân của Ngài phải họp nhau nhân danh Ngài, tức là sống hiệp thông và hiệp nhất nên một trong tình yêu của Ngài. Nói cách khác, con dân của Ngài phải là những người thi hành điều răn do chính Ngài trao ban khi công bố: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).
Thực ra, tình yêu là chuyện vĩnh cửu, có lẽ đã xuất hiện cùng một lúc với con người tại trần gian. Do đó, nếu Chúa chỉ dạy người ta yêu thương như họ đã từng yêu thương nhau thì lời dạy đó xem ra cũng tầm thường. Không phải thế! Đọc kĩ ta thấy, Chúa dạy ta yêu thương kiểu mới, nghĩa là yêu thương như chính Chúa đã yêu.
Yêu như Chúa yêu là yêu thương chính LÚC, yêu thương chính Điều, yêu thương chính NHỮNG CON NGƯỜI, và yêu thương ở MỨC mà người thường không thể yêu thương nổi. Yêu như Chúa yêu là làm hòa với kẻ ghét mình, là cầu nguyện cho kẻ căm thù mình, là làm đẹp môi trường sống bằng những lời nói gây đoàn kết yêu thương và bằng sự hiến trao vô vị lợi; Yêu như Chúa yêu chính là cúi xuống tận mặt đất để bày tỏ một tình yêu sâu thẳm bằng hành động rửa chân– cho dù người đó là Giuđa, kẻ phản bội tình yêu; Yêu như Chúa yêu chính là lắng nghe để thấu hiểu và thấu cảm, để chia sẻ và yêu thương như bạn hữu thân tình; Yêu như Chúa yêu chính là, yêu cho đến cùng, yêu cho đến chết và chết trên thập giá
– tuyệt đỉnh của tình yêu vì “không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Một tình yêu như thế hiện hữu trong nội tại của cộng đoàn dân Chúa sẽ chứa đựng sức mạnh vô song, tạo ra niềm hạnh phúc viên mãn, chực chờ tuôn trào ra bên ngoài nơi có những tâm hồn khát vọng sự sống viên mãn và trường tồn.
3. “Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi” (Mc 16,20)
Nếu tình yêu như một dòng chảy liên kết nhân loại với Chúa, thì chính tình yêu ấy cũng liên kết con người lại với nhau. Đó chính là hình ảnh tuyệt diệu của cộng đoàn dân Chúa, bởi nó không chỉ tạo ra sức mạng nội tại bền vững mà còn tạo ra sức ảnh hưởng tích cực tới bên ngoài: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy. Là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Tuy nhiên, chỉ như thế thôi thì chưa đủ. Là công dân của Thiên Quốc, ta không được phép chỉ chăm chú vào ‘chính sách đối nội’ mà còn phải có ‘chính sách đối ngoại’ nữa, không được phép ‘loay hoay’ trong vùng an toàn được ‘bờ cõi’ đánh dấu mà phải ‘vượt biên’ để ra đi và đến với mọi người, để công bố Tin Mừng cứu độ, để nhờ đó nhân loại trở về và được tha thứ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15). Yêu thương là bản chất của Chúa (1Ga 4,8) và ra đi loan báo là bản chất của công dân nước trời (AG 2).
Vẫn biết rằng ra đi thì rất khó, vì phải đi ngược lại với xu hướng chung của con người là an phận; hơn nữa, ra đi là đối diện với điều mới, với khó khăn, thậm chí là với nguy hiểm. Chính Đức Giêsu đã ý thức rất rõ điều đó khi chia sẻ với các môn đệ: “Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói” (Lc 10,3). Một sự so sánh cho ta thấy được thân phận đầy rủi ro và nguy hiểm của người môn đệ. Ta nên thoái thác chăng? Không thể vì đó là lệnh của “Vua”, thậm chí thánh Phaolô chia sẻ tâm tư của ngài cũng là một lời khuyên chân thành cho mỗi chúng ta: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9, 16).
Tạm Kết: Nhân loại đang sống trong tâm thế ngẩng cao đầu và kiêu hãnh vì những tiến bộ của khoa học và thành tựu mà nó mang lại. Ngược lại là một bức tranh khá tối và đượm buồn về Giáo Hội, vương quốc của Thiên Chúa: nhiều vụ tai tiếng, ơn gọi đi xuống một cách trầm trọng, nhà thờ thưa thớt tín hữu ghé thăm… Chúa lại đi vắng chăng? Chắc chắn không phải thế. Chúa vẫn ở cùng, vẫn hiệp hành, vẫn mở rộng con tim… nhưng con người đang ngủ say với những “con bò vàng” của họ, nên tâm trí chưa tỉnh để phân định. Trong tình cảnh đó, người môn đệ Chúa phải luôn hội tụ đủ hai điều là tỉnh thức và đánh thức.
LỆNH TRUYỀN LÚC THĂNG THIÊN (Linh mục Giuse Đỗ Nguyên Vũ, SVD)
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15). Lệnh truyền này của Chúa Giêsu trước khi Ngài lên trời đã thôi thúc biết bao thế hệ các nhà truyền giáo dành tất cả nhiệt huyết, tình yêu, phó thác và cuộc đời để rao giảng Tin Mừng. “Thăng Thiên” là một biến cố của sứ vụ truyền giáo nối tiếp sứ vụ đến với muôn dân của Chúa Giêsu nhờ bàn tay con người; nó là một chứng từ đầy tin tưởng và hân hoan hướng về quê Trời trong cuộc đua trần thế của Giáo Hội lữ hành năng động.
Chúng ta cùng đi…
Giáo Hội là một đại gia đình, vì vậy chúng ta được mời gọi sống cùng nhau và truyền giáo cùng nhau. Trên thế giới có đến hàng trăm Hội Dòng cùng nhau cộng tác vào công cuộc truyền giáo; tuy nhiên, tất cả mọi Kitô hữu về bản chất có ơn gọi truyền giáo trong mình vì đều lãnh nhận cùng một phép rửa. Sứ vụ không phải của riêng ai nhưng là của đại gia đình Giáo Hội tham dự vào sứ vụ của Thiên Chúa. Chiều kích “cùng nhau” phản ánh tính cộng đồng của Giáo Hội. Theo Daniel Harrington, chúng ta có thể theo dõi “sự liên tục của niềm tin, nhân sự, và thực hành giữa nhóm (các môn đệ) qui tụ quanh Đức Giêsu trong thời gian sứ vụ ở trần gian và nhóm (Giáo Hội) qui tụ quanh Chúa Phục Sinh.” Các sách Tin Mừng, sách Công Vụ Tông Đồ và chiều dài lịch sử của Giáo Hội cho thấy Giáo Hội chưa bao giờ là đơn lẻ nhưng là một tập thể có “cấu-trúc-chúng-ta” (we-structure) theo như cách nói của Đức Giáo Hoàng Benedict XVI, bởi vì đức tin bắt nguồn từ cộng đoàn rồi lớn lên. Hạt giống đức tin trải qua muôn thế hệ vẫn lớn mạnh là nhờ vào tinh thần truyền giáo không mệt mỏi của biết bao thế hệ Kitô hữu, vượt qua bao nhiêu bão tố cuồng phong của những cuộc bách hại và bất lợi, mà vẫn “cùng nhau” như một gia đình Giáo Hội đến với muôn dân.
… đến với muôn dân…
Tinh thần Ad Gentes (đến với muôn dân) văng vẳng trong lệnh truyền của Chúa Giêsu được khai triển trong Sắc lệnh Ad Gentes của Công Đồng Vatican II chưa và sẽ không bao giờ là lỗi thời cho đến khi tất muôn dân nhận biết và sống Tin Mừng Chúa Kitô. Chương trình qui tụ Dân Chúa là chương trình của Chúa Ba Ngôi, nhất là của Chúa Thánh Thần hoạt động và dẫn dắt Giáo Hội để làm cho người Kitô hữu trở thành “… chứng nhân [của Chúa Kitô] … cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Cùng nhau đến với muôn dân vì “rao giảng Tin Mừng là hành động yêu thương đồng loại trước nhất và cao cả nhất” (Thánh Arnold Janssen). Đó là tinh thần truyền giáo bền bỉ của Cha Thánh Arnold và của biết bao thế hệ các nhà truyền giáo Dòng Ngôi Lời từ khi thành lập năm 1875 đến nay. Yêu mến và say mê sứ vụ truyền giáo được thể hiện bằng tình yêu thương và phục vụ con người, nhất là đến với những người nghèo khổ, người kém may mắn, người bị gạt ra bên lề xã hội, … Đầy tính ngôn sứ, Đức Thánh Cha Phanxicô khắc khoải tha thiết mời gọi “Hãy lên đường, hãy lên đường cống hiến cho mọi người sự sống của Chúa Kitô … Tôi muốn thấy một Giáo Hội bị bầm giập, tổn thương và lấm lem trên đường dấn thân, chứ không phải là một Giáo Hội ‘xanh xao vàng vọt’ vì sống đóng khung và bám víu vào chu vi hàng rào an toàn của riêng mình … Tôi không muốn có một Giáo Hội chỉ lo cho mình phải là ‘cái rốn của vũ trụ,’ và sau đó, kết thúc bằng việc bị giam cầm giữa một mạng lưới định kiến và thủ tục …” (x. Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, số 49). Tinh thần truyền giáo triệt để cũng là một tinh thần “thăng thiên” dám ra khỏi chính mình để áp dụng một phương thế cụ thể, thiết thực nhất mà loan báo Tin Mừng.
… loan báo Tin Mừng…
Loan báo Tin Mừng là một quá trình đồng hành và bắt chước Đức Giêsu từ hang Bêlem cho đến mọi nẻo đường sứ vụ, đi lên đỉnh đồi Gôngôtha của đau khổ, rồi bước ra khỏi mộ đá với ánh sáng Phục Sinh, và tại biển hồ Galilê lên trời vinh quang. Đồng hành với Chúa Giêsu và bám sát, noi theo sứ vụ của Ngài trên hành trình đến với tha nhân là chặng đường bảo đảm nhất dẫn đưa chúng ta đến mục đích “thăng thiên” với Chúa. Loan báo Tin Mừng hôm nay không chỉ đơn thuần là giảng Phúc Âm và rửa tội cho nhiều người theo đạo, nhưng còn là sống cùng, sống với, sống chia sẻ hòa đồng với tất cả mọi người (là hàng xóm láng giềng, là bạn bè đồng nghiệp), không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, vị trí xã hội, để lấy giá trị của việc sống Tin Mừng của người Kitô hữu mà rao giảng. “Đồng hành” không phải là con đường truyền giáo luôn trải đầy thảm hoa.
Chính Chúa Thánh Thần là Đấng hoạch định mọi kế hoạch rao giảng của Dân Chúa và chúng ta, trong khó khăn, cần lắng nghe, phân định, và làm theo ơn linh hứng của Thần Khí (x. Ga 14,16; 16,7; Cv 1,8; 1 Cr 12,3). Đáng tiếc thay, nhiều người đã thích đi tắt đón đầu bằng những kế hoạch loan báo Tin Mừng thần tốc, may mắn, tốt đẹp và lãng mạn làm cho đức tin cũng bạo phát bạo tàn. Xác định con đường chông gai của Tin Mừng và cộng tác với ân sủng Chúa; từ đó, nhờ kiên nhẫn và trung thành, chúng ta mới có thể gieo những hạt giống Tin Mừng vào mảnh đất tốt của tâm hồn và thu lượm được kết quả tốt đẹp bền vững. Sống đẹp theo Tin Mừng, chúng ta cũng góp phần cùng với Thần Khí Chúa cứu thoát mọi loài nhờ tinh thần “thăng thiên” của Đức Kitô là ơn cứu độ dành cho muôn loài.
… cho mọi loài thụ tạo
“Thăng thiên” không phải là một biến cố kết thúc nhưng mở ra một kỷ nguyên mới của Giáo Hội, kỷ nguyên của ân sủng và hy vọng. Thật vậy, trong khi “muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người” (Rm 8,19) thì biến cố thăng thiên mời gọi con người nhìn xa hơn, trông rộng hơn đến ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho vũ trụ vạn vật chứ không chỉ riêng cho con người. Chúa Giêsu đã lên trời còn chúng ta đừng tiếc nuối, hãy hành động để tiếp tục sống lạc quan hơn và trách nhiệm hơn. Mọi hành động ngược đãi và hủy hoại môi trường sinh thái đều là tội ác vì nó đi ngược lại với kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và phản bội lời mời gọi rao giảng Tin Mừng dành cho người môn đệ chân chính. Thông điệp ‘Laudato Si’ nhận định cách thiêng liêng rằng: “Toàn thể vũ trụ là nơi cư ngụ của Thiên Chúa. Trái đất, một góc rất nhỏ, được chúc phúc riêng biệt của vũ trụ đó, là ngôi nhà của nhân loại, và con người không bao giờ cảm thấy dễ chịu thoải mái như khi Thiên Chúa cư ngụ với họ” (x. LS 77-78, trích theo Báo CGvDT số 306, trang 36). Vũ trụ quyết định vận mệnh cuộc sống chúng ta, theo Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, “Hiện tại và tương lai của thế giới tùy thuộc vào việc bảo vệ thụ tạo.” Vì vậy, sống tinh thần “thăng thiên” triệt để cần một tinh thần đầy trách nhiệm đối với nhân loại và vũ trụ vạn vật; đó cũng là một tinh thần truyền giáo.
“Chúng ta cùng đi đến với muôn dân loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” là cách diễn lại của lệnh truyền trong Máccô 16,15. Câu nói này bộc lộ rõ mọi đối tượng và mọi khía cạnh của tinh thần truyền giáo trong biến cố “thăng thiên” của Chúa Kitô. Nguyện xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn để mỗi người chúng ta cộng tác quảng đại với toàn nhân loại chung tay bảo vệ vũ trụ vạn vật. Với niềm cậy trông kiên vững hôm nay, chúng ta được cùng với thần thánh trên Trời hát vang bài ca “thăng thiên” mừng Chúa về Trời thế nào, thì ngày mai chúng ta cũng hân hoan “thăng thiên” vì phần thưởng dành cho con cái Chúa như vậy. Amen.
CHÚA THĂNG THIÊN (Lm. Tôma Aq. Nguyễn Văn Bắc, SVD)
Hằng năm chúng ta vẫn mừng Chúa Giêsu lên trời, vậy Chúa lên trời là Chúa ở đâu, trời như thế nào, Chúa về trời để làm gì?
Thông thường khi nghe hoặc nói đến trời, chúng ta thường liên tưởng đến ngay ở một nơi cao vời và ngay từ bé chúng ta cũng được dạy được nghe người khác nói trời là ở trên cao, trên đầu, nơi đầy ánh sáng huy hoàng. Và ngược hoả ngục hay luyện ngục là ở chốn sâu thẳm, tăm tối nào đó. Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng có lúc tự hỏi, trời ở đâu và ở đó như thế nào? Vậy trời có phải là nơi cao, ở trên đầu như chúng ta vẫn thường nghĩ như trên không? Không, thiên đàng hay hoả ngục không phải là nơi chốn, không phải là ở chỗ này hay chỗ kia, cũng không phải ở trên cao hay dưới đáy sâu, nhưng là một tình trạng.
Nếu chúng ta nói thiên đàng ở trên cao hay chỗ nào đó trên trời thì điều này chúng ta cũng giống như nhà du hành vụ trụ Liên Xô tên là Gagarin nghĩ tưởng. Gagarin nhà du hành vũ trụ người Liên Xô, nói như thế này: “Tôi đã lên tận chín tầng trời mà không thấy Thiên Chúa đâu cả”?
Một người vô thần, nhà khoa học biện chứng, cái gì cũng đòi phải chứng minh được, cái gì cũng đòi phải cân đo đong đếm, thì làm sao mà nhìn thấy được Thiên Chúa vô hình, làm sao mà có thể cân đo được Thiên Chúa. Ông nghĩ rằng nước trời ở một chỗ nào đó ở trên cao mà ông có thể đi đến, nhìn thấy, khám phá và đụng chạm được.
Ngược lại với Gagarin là nhà bác học nỗi lạc Isaac Newton. Khi quan sát các dải hành tinh và dải ngân hà ông đã reo lên: “Tôi đã thấy Thiên Chúa đi qua kính viễn vọng của tôi”. Đúng thế, vũ trụ bao la có hàng tỷ tỷ hành tinh, muôn vật, muôn loài, chúng luôn vận động không ngừng, chúng hoạt động trong trật tự một cách lạ lùng. Là người, ai cũng có thể nhận ra phải có ban tay của Đấng Tạo hóa (Thiên Chúa) xếp đặt. Sách giáo lý Giáo Hội Công giáo dạy các em nhỏ như thế này: Trăng sao quay, trái đất quay, vạn vật viễn chuyển vần xoay không ngừng.Tai sao trật tự lạ lùng, là do Chúa dựng mới thành bạn ơi!
Như vậy, thiên đàng không phải là một nơi chốn nhưng là một tình trạng. Trời hay thiên đàng là thời gian vô tận của tình yêu không bao giờ còn xa cách giữa Chúa và linh hồn. Được hiệp nhất với tất cả các thiên thần và các thánh, linh hồn được vui hưởng hạnh phúc luôn luôn ở gần Chúa, ở với Chúa.
Cũng thế, luyện ngục hay hoả ngục cũng là một tình trạng. Luyện ngục là tình trạng của những người chết trong ơn nghĩa Chúa, đã được cứu độ nhưng cần phải được thanh luyện trước khi họ có thể xem thấy Chúa mặt đối mặt: như thế là họ phải tạm xa Chúa một thời gian. Còn hỏa ngục là nơi con người phải xa lìa Thiên Chúa vĩnh viễn, một nơi không có tình yêu của Thiên Chúa.
Có một hiệp sĩ Samurai kia rất hung bạo. Ông tìm đến một thiền sư hỏi: Xin cho tôi biết thiên đàng, hỏa ngục là gì. Vị thiền sư nhìn thấy con người thô bạo của anh thì nói: Ta không thể dạy cho ngươi biết thiên đàng hỏa ngục là gì, vì ngươi hung bạo quá. Ngươi làm nhục cho hàng ngũ hiệp sĩ của ngươi. Nghe vị thiền sư nói thế, chàng hiệp sĩ bừng bừng sát khí, rút gươm định chém vị thiền sư. Nhưng vị thiền sư đưa tay cản lại mà nói: “Hỏa ngục là đó”. Nhận được bài học thực tế của vị thiền sư, chàng hiệp sĩ dừng tay lại. Sự hối hận và thương cảm trào dâng trong tâm hồn y. Y hiểu rằng vị thiền sư đã dám hy sinh cả mạng sống để dạy cho y bài học về hỏa ngục. Y từ từ xỏ gươm vào vỏ, rồi quỳ gối trước mặt vị thiền sư với tất cả tấm lòng thành và tỏ ý sám hối. Vị thiền sư đưa tay đỡ y dậy, nhìn sâu vào đôi mắt y mà bảo: “Thiên đàng là thế đó”.
Vâng. chỉ có thiên đàng khi con người biết sống yêu thương hài hòa với nhau. Chỉ có thiên đàng khi con người biết cảm thông, tha thứ, phục vụ hy sinh quên mình vì người khác như lời Chúa dạy.
Vì thế, thiên đàng không phải trên chín tầng mây như Gagarin nói, nhưng là ở ngay trong lòng mỗi người, nếu như chúng ta sống yêu thương, vui vẻ. Thiên đàng cũng không phải nơi nào đó để Chúa Giêsu về, nhưng là Chúa ở đâu thì thiên đàng ở đó. Đâu có Chúa là đấy có thiên đàng. Đâu có tình yêu thương ở đấy có Đức Chúa trời. Lòng ai có Chúa là người ấy có thiên đàng.Gia đình nào có Chúa là gia đình đó có thiên đàng.
Chúa Giêsu về trời là để chuẩn bị chỗ ở cho chúng ta. Vì chính Chúa Giêsu đã nói với các tong đồ điều đó: “Thầy đi để dọn chỗ cho các con… để Thầy ở đâu, các con cũng ở đấy với Thầy” (Ga 14,2-3). Như thế, qua mầu nhiệm Chúa lên trời, Chúa muốn chúng ta hiểu rằng: Trời, mới chính là tương lai của con người, tương lai của nhân loại. Vậy nên, Chúa về trời không phải để xa cách chúng ta, nhưng là ở gần chúng ta hơn mỗi khi chúng ta cầu xin Người. Khi còn sống ở dương gian này, Chúa Giêsu bị hạn chế vào không gian và thời gian, Ngài có ở đây thì không có ở kia, và ngược lại… Như thế, cuộc ra đi của Chúa Giêsu là điều thật cần thiết. Sự ra đi của Chúa Giêsu chấm dứt cách thế hiện diện hữu hình và mở ra một thế giới mới, thế giới phổ quát. Một sự hiện diện sâu xa và luôn luôn: “Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến ngày tận thế” (Mt 28,20).
Chúa Giêsu lên trời đểcầu bầu cùng Chúa Cha cho chúng ta, và Ngài lên trời để trao quyền cho Giáo Hội tiếp tục chương trình truyền giáo của Ngài: “Anh em hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Anh sẽ làm chứng cho Thầy tại Giêrusalem, trong khắp miền Giuđê và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Chúa Giêsu lên trời mở ra giai đoạn thừa sai của Giáo Hội. Các tông đồ đã không ngừng lên đường đi đến mọi chân trời góc biển để làm chứng cho Chúa Kitô.
Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta hãy trở thành môn đệ của Ngài và làm chứng cho Ngài giữa một thế giới đầy náo động này.