Truyền Giáo tại Á Châu: Kể chuyện về Đức Giêsu

0
632

TRUYỀN GIÁO TẠI Á CHÂU: KỂ CHUYỆN VỀ ĐỨC GIÊSU [1]

 

Đức Hồng Y Luis Antonio G. Tagle

Tổng Giám Mục Manila, Philippines

 

Đại Hội Về Truyền Giáo tại Á Châu là một cơ hội thể hiện lời mời gọi truyền giáo của Giáo Hội. Nó gợi lại những đường lối truyền giáo tại Á Châu mà Giáo hội đã thực hiện với một lòng biết ơn. Với những chứng tá về sự dũng cảm, đức tin và tình yêu, nó hân hoan tiếp tục những cố gắng trong sứ vụ. Nó mời gọi chúng ta tiếp tục dấn thân cho mệnh lệnh bất diệt của Đức Giêsu Kitô để chúng ta đem Tin Mừng cứu độ của Thiên Chúa đến khắp cùng cõi đất. Nó thôi thúc chúng ta tìm kiếm một phương pháp mới về sự hiểu biết và thực thi sứ vụ, trung thành với truyền thống phong phú của Giáo Hội nhưng đáp ứng được những thực tế mà người Á Châu đang đối diện.

Chúng ta có thể nói rằng lịch sử của Giáo Hội là lịch sử truyền giáo. Từ thời Tân Ước, lịch sử đa lớp và đa sắc này biểu lộ nhiều phương cách qua đó Giáo Hội hiểu và thực hành sứ vụ. Chúng ta có thể hiểu rằng Giá Hội hoàn vũ tồn tại trong các giáo hội địa phương có lịch sử và hoàn cảnh đặc biệt, cho nên nó có những kinh nghiệm và nội dung truyền giáo khá độc đáo. Trong Tông Huấn Sứ Vụ Đấng Của Cứu Thế (Redemptoris Missio: RM), Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khẳng định một sự hiểu biết sâu sắc về Ad Gentes(AG)[2]rằng truyền giáo, một thực tại đơn độc nhưng phức tạp, được phát triển bằng nhiều cách khác nhau.[3]Tiếp tục sự năng động của Giáo Hội trong việc đi tìm những phương pháp truyền giáo phù hợp với những thời điểm và địa điểm cụ thể, đại hội của chúng ta đề nghị một sự hiểu biết và thực hành truyền giáo tập trung vào Câu Chuyện Về Đức Giêsu Tại Á Châu (the Story of Jesus in Asia).

Một câu chuyện thì không bao giờ đúng là một câu chuyện. Một câu chuyện chỉ thật sự là một câu chuyện khi nó được kể hoặc thuật lại và được lắng nghe. Ngày nay, từ kể chuyện thường được hiểu là chia sẻ. Trong Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu (Ecclesia in Asia: EAs), Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II diễn tả truyền giáo như là sự chia sẻ ánh sáng đức tin trong Đức Giêsu, một món quà đã nhận và một món quà được chia sẻ cho người khác tại Á Châu.[4]Sự chia sẻ đó có sử dụng phương pháp kể chuyện về Đức Giêsu. Tôi tin rằng cách kể chuyện đó cung cấp một dàn bài sáng tạo để hiểu và thực hành truyền giáo tại Á Châu, một lục địa có nhiều văn hóa và tôn giáo đã được cắm rễ sâu vào trong những câu chuyện hoặc sử thi vĩ đại. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã nhận ra những phương pháp kể chuyện quen thuộc với các mẫu văn hóa Á Châu như một cách tham chiếu về việc rao giảng Đức Giêsu tại Á Châu (EAs 20).

 

Hiểu ‘Chuyện’ và Kể Chuyện

 

Chúng ta không thể tưởng tượng đời sống con người sẽ như thế nào khi thiếu vắng những câu chuyện. Cuộc sống, tự bản chất, được cấu trúc như một câu chuyện. Câu chuyện diễn tả cuộc sống và ý nghĩa của nó. Kể chuyện đến với chúng ta một cách rất tự nhiên nên chúng ta không suy tư một cách đầy đủ về ý nghĩa của nó đối với đời sống của mình. Những năm gần đây, các học giả đã khám phá ra vai trò của kể những chuyện bằng các nguyên tắc tương ứng của chúng. Thần học và linh đạo đã được hưởng lợi từ việc “trở về với câu chuyện” này.[5]Truyền giáo có thể được cải thiện hơn nữa. Chúng ta dành thời gian để suy niệm về câu chuyện và việc kể chuyện. Phần trình bày của tôi sẽ tìm hiểu thấu đáo hết mọi khía cạnh. Như một lời mời gọi đi xa hơn việc suy niệm và thảo luận, bài nói chuyện này chỉ tập trung vào những khía cạnh mà chúng có thể mang đến một sự hiểu biết về truyền giáo như là việc kể chuyện về Đức Giêsu.

 

  1. Các câu chuyện hay được dựa vào kinh nghiệm

 

Có nhiều câu chuyện hay nhưng cũng có cả những câu chuyện dở. Nhưng sự khác biệt thì không tùy thuộc vào cách của người kể hoặc cái kết của câu chuyện. Mục đích cuối cùng của chúng ta là muốn câu chuyện trở nên đáng tin, có thể tin được vì nó là câu chuyện có thật. Điều căn bản nhất của sự thật trước hết đó là kinh nghiệm của người thuật chuyện. Trong khi kinh nghiệm của những người thuật chuyện khác có thể tin được, không có gì phù hợp với câu chuyện của một người đã thực sự chứng kiến khi một sự cố xảy ra, vì sự việc bây giờ là một phần của con người. Chúng ta kể những câu chuyện hay nhất của mình khi những câu chuyện đó là kinh nghiệm của ta. Những câu chuyện hay nhất của chúng ta là chúng ta là ai.

 

  1. Các câu chuyện biểu lộ căn tính cá nhân và con người và các sự kiện định hình căn tính đó

 

Các câu chuyện biểu lộ chúng ta là ai, dòng chảy và định hướng của đời ta và nơi chúng ta sẽ tới. Câu chuyện của tôi là tự truyện của tôi, căn tính của tôi nằm trong kế hoạch vĩ đại của tất cả.[6]Như tôi đã kể một số chuyện của tôi, câu chuyện căn bản của đời tôi không chỉ được mạc khải cho người nghe nhưng trước hết là cho tôi, người kể chuyện. Tôi ý thức về chính mình. Nhưng tôi nhận ra trong tiến trình đó câu chuyện không đơn giản về tôi. Nhưng nó cũng luôn luôn bao gồm cả người khác, gia đình và bạn bè của tôi, xã hội, văn hóa, kinh tế, hoặc những thứ mà chúng ta gọi là “thời gian.” Câu chuyện của tôi không được phát triển trong một sự trống rỗng (xa rời mọi người và mọi việc). Tôi là những gì tôi là bởi vì tôi được mắc vào trong những câu chuyện của người khác và những câu chuyện của đời tôi. Nếu tôi lãng quên hoặc từ chối chúng, tôi không có câu chuyện của đời mình để kể. Khi kể câu chuyện đời mình, tôi cũng ý thức về thế giới mà tôi đang sống.

 

  1. Các câu chuyện thì không ngừng thay đổi, mở ra để thể hiện lại và kể lại, và biến đổi

 

Căn tính cá nhân được định hình bởi sự tương tác với thế giới đặt vào trong trí nhớ. Ký ức thì quan trọng nếu chúng ta muốn lớn lên trong sự hiểu biết chính mình. Nhưng chúng ta nhớ bằng cách kể chuyện.[7]Ký ức được tạo nên bởi những câu chuyện hơn là trình tự thời gian, và các câu chuyện đưa kinh nghiệm trở về với trí nhớ.[8]Bằng cách ghi nhớ, chúng ta nhận ra rằng quá khứ thì không bao giờ thay đổi. Nó tiếp tục ảnh hưởng đến chúng ta. Nó cũng có thể được nhìn trong một ánh sáng mới từ thị giác được cung cấp bởi những kinh nghiệm mới. Trong thực tế, chúng ta kể cùng một câu chuyện bằng nhiều cách khác nhau. Các câu chuyện mạc khải những yếu tố tạo nên chúng ta, những cái bây giờ làm cho chúng ta khác với những gì chúng ta đã là trước đây và mở ra những khả năng cho tương lai. Nhờ các câu chuyện, chúng ta giữ được mối liên lạc với sự biến đổi không ngừng của căn tính cá nhân: chúng ta đã thay đổi bao nhiêu và còn phải thay đổi bao nhiêu.

 

  1. Các câu chuyện là nền tảng để hiểu các biểu tượng linh đạo, tín lý và luân lý

 

Các câu chuyện tiết lộ căn tính cá nhân bằng cách đánh thức các giá trị, các nguyên tắc luân lý và các ưu tiên của một người. Linh đạo của một người nổi bật lên trong câu chuyện của người đó. Các biểu tượng cao quí về luân lý, linh đạo và tín lý của một người được phát xuất từ những câu chuyện về cuộc đời của người đó. Những biểu tượng sống động sâu sắc đó chỉ được hiểu khi câu chuyện được kể và được nghe.[9]Các câu chuyện thì không thể thiếu ý nghĩa của các biểu tượng đức tin và luân lý của một người.

 

  1. Các câu chuyện tạo thành cộng đoàn

 

Những gì chúng ta đã nói về câu chuyện và căn tính cá nhân cũng đúng với căn tính của một cộng đoàn. Kinh nghiệm và những ký ức chung kết hợp các cá thể đặc biệt vào trong một thân thể. Câu chuyện riêng của một cộng đoàn trở thành những hạt nhân của các giá trị, đạo đức và linh đạo của nó.[10]Một sự phân biệt niềm tin, nghi thức, nghi lễ, phong tục và lối sống chỉ có ý nghĩa đối với chúng ta nếu chúng ta trở về với các câu chuyện mà tất cả các thành viên của cộng đoàn đó đã nắm giữ và quí trọng.

 

  1. Các câu chuyện khi được đón nhận có thể biến đổi người nghe

 

Những kinh nghiệm quan trọng được đặt tên và kể bằng các câu chuyện.[11]Khi chúng ta kinh nghiệm một vài điều tích cực hoặc tiêu cực, chúng ta không thể chờ để kể cho một vài người. Sự thôi thúc này nói với chúng ta rằng chúng ta cần có người để nghe câu chuyện của ta, ta cần người để chia sẻ. Câu chuyện của một người có thể đánh thức những kinh nghiệm tương tự của người nghe, mở ra những ý nghĩa mới, tạo nên sự kinh ngạc và lay động tiềm thức. Sự thôi thúc và phản ứng của người nghe bắt đầu khi người kể chuyện kết thúc.[12]Câu chuyện của người kể được thêu dệt với câu chuyện của người nghe tạo nên những câu chuyện mới. Thông thường, một người nghe giỏi sẽ trở thành một người kể chuyện hay. Một người đã từng có kinh nghiệm khi nghe câu chuyện của người khác và kể lại nó như chuyện của mình sẽ bảo toàn các chi tiết và mạch văn của câu chuyện mà họ đã nghe.

 

  1. Các câu chuyện có thể được kể bằng nhiều cách khác nhau

 

Một câu chuyện có thể được kể bằng nhiều cách, ngay cả khi không kể theo từng chữ. Câu chuyện truyền khẩu vẫn đang còn phổ biến nhất. Nhiều câu chuyện được kể bằng văn xuôi, tiểu thuyết hay thơ. Hình ảnh và phim là những cách thức kể chuyện đầy sáng tạo và hiệu quả. Những điệu bộ, phong cách cá nhân, cung giọng, những biểu hiện trên khuôn mặt và tư thế cơ thể của một người thì hiện diện như bất kỳ nhân vật nào trong một câu chuyện. Sự im lặng của một người có thể là một cách kể chuyện rất mạnh mẽ. Thêm vào đó, quan điểm, lối sống và các mối liên hệ của một người kể các câu chuyện và tạo ra những câu chuyện mới. Các vũ điệu, nhạc, nghệ thuật, kiến trúc và thức ăn của một cộng đoàn là những chiều kích căn bản về câu chuyện của cộng đoàn đó. Các câu chuyện giàu tính bố cục cho nên chúng được kể bằng nhiều cách khác nhau.

 

  1. Các câu chuyện có thể được giữ kín/không được kể ra

 

Ngay cả khi câu chuyện đến với chúng ta một cách tự nhiên, một vài yếu tố có thể ngăn chặn nó không được kể ra. Nỗi đau đã gây ra một nỗi buồn bởi ký ức, sự xấu hổ và cảm giác tội lỗi có thể ngăn cản một nạn nhân kể lại câu chuyện của cô/anh ta một cách đầy đủ. Để bảo vệ căn tính sau một kinh nghiệm thương đau, một nạn nhân có thể từ chối vì câu chuyện là một phần của căn tính và ký ức của cô/anh ta. Những kẻ độc tài ngăn cấm những câu chuyện về tham nhũng, đàn áp, giết chóc và phá hủy đang được kể, vì sợ rằng sự thống trị của họ sẽ bị đặt vào trong tình trạng nguy hiểm. Họ mua chuộc những người làm truyền thông và đe dọa những ai muốn nói sự thật. Họ áp đặt lịch sử quốc gia chính thức xóa đi những ký ức có thể đặt họ trong bóng tối. Một số câu chuyện cũng rất nguy hiểm khi kể, vì người nghe có thể nghe lời mời gọi để biến đổi. Những cuộc đấu tranh khốc liệt đang được bắt đầu mỗi ngày thì vượt trên các câu chuyện. Nhưng sự chữa lành thì có thể. Những nơi mà các nạn nhân cho phép kể chuyện của họ với bạn bè, chuyên gia tư vấn, hoặc các chuyên viên những người bày tỏ lòng trắc ẩn và sự thông hiểu, sự tự tôn của họ từ từ đến sau. Nơi mà các cộng đoàn phản đối câu chuyện thật của mình, thì họ cũng không chấp nhận sức mạnh của họ đối với sự thay đổi xã hội.

Chúng ta tốn thời gian để suy tư về chuyện và kể chuyện để khám phá các tiềm năng của nó đối với sự hiểu biết và thực hành truyền giáo.

 

Truyền Giáo Tại Á Châu Là Kể Chuyện Về Đức Giêsu

 

Cùng với Hiến Chế Đến Với Muôn Dân (Ad Gentes) của Công Đồng Vaticano II, ngay từ đầu chúng ta đã khẳng định rằng Giáo Hội lữ hành tự bản chất là truyền giáo, vì nguồn gốc của nó phát xuất từ sứ vụ của Đức Giêsu Kitô và sứ vụ của Chúa Thánh Thần theo ý định cứu độ của Chúa Cha (AG 2). Vì thế, những gì Đức Giêsu đã hoàn thành cho sự cứu rỗi của muôn người có thể đến trong thời gian để đạt được hiệu quả của nó trong tất cả, Ngài đã gửi Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha để mang công trình cứu độ của Ngài một cách âm thầm và trong Giáo Hội (AG 3-4). Tuy nhiên, như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói rất đúng rằng chỉ có Chúa Thánh Thần là tác nhân chính của truyền giáo. (cf. RM, chương III). Chính Chúa Thánh Thần đã thôi thúc Giáo Hội hoàn thành sứ mạng đã được ủy thác cho mình (EAs 43).

Từ cách nhìn này, sứ vụ của Đức Giêsu Kitô và Chúa Thánh Thần có thể được xem như là câu chuyện của chính Thiên Chúa. Thiên Chúa là “người kể chuyện” (teller of the tale).[13]Chúa Thánh Thần sẽ kể câu chuyện của Đức Giêsu cho Giáo Hội. Đức Giêsu đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Chúa Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14, 26). Ba Ngôi Vị trong mầu nhiệm Ba Ngôi thậm chí còn được Đức Giêsu miêu tả như “kể chuyện” với nhau. “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại… Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em. Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói: Người lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 16, 13-15). Sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội là hoa quả của Câu Chuyện mà Chúa Thánh Thần loan báo cho nó phát xuất từ Đức Giêsu và Chúa Cha. Nguồn gốc sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội là Người Kể Chuyện Tuyệt Vời (Great Storyteller), Chúa Thánh Thần, Giáo Hội phải lắng nghe Chúa Thánh Thần để có thể chia sẻ những gì mà Giáo Hội đã nghe được từ nơi Người. Giáo Hội là Người Kể Chuyện của Thiên Chúa (God’s Storyteller) kể về Đức Giêsu Kitô như nó nghe Chúa Thánh Thần.

Giáo Hội nên kể câu chuyện về Đức Giêsu đi mà không nói. Như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói, câu hỏi quan trọng đối với Á Châu đó là, làm sao để chia sẻ câu chuyện về Đức Giêsu (EAs 19). Khía cạnh “làm thế nào” của truyền giáo đã là một mối quan tâm của nhiều nhà thần học ở Á Châu, chẳng hạn Michael Amaladoss, SJ.[14]Sử dụng một vài suy tư của chúng ta về sự hiểu biết câu chuyện, chúng ta hãy xem truyền giáo như là kể câu chuyện về Đức Giêsu dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

 

  1. Giáo Hội kể chuyện về Đức Giêsu từ kinh nghiệm của mình về Ngài

 

Kể chuyện về Đức Giêsu ở Á Châu thì có hiệu quả hơn nếu nó phát xuất từ kinh nghiệm của người kể chuyện. Lời nhận xét của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI trong Evangelii Nuntiandi[15]rằng con người ngày nay cần chứng nhân hơn là thầy dạy vẫn còn đúng với tất cả mọi người trên hoàn vũ, nhưng nó đúng hơn với Á Châu nơi mà các nền văn hóa đặt trọng tâm đặc biệt vào tính trung thực được chứng thực dựa trên kinh nghiệm của chứng nhân. Các tông đồ đầu tiên, họ là những người Á Châu, đã nói kinh nghiệm của họ – những gì họ đã nghe, họ đã thấy với con mắt của mình, họ đã xem và sờ tay vào Lời Sự Sống (1 Ga 1, 1-4). Không thể có bất cứ phương cách nào khác cho Giáo Hội ngày nay tại Á Châu. Không có kinh nghiệm sâu sắc về Đức Giêsu như là Đấng Cứu Thế, làm sao tôi có thể kể câu chuyện của Ngài một cách thuyết phục giống như một phần câu chuyện của cá nhân tôi? Thật vậy, kinh nghiệm của Thánh Phaolô là cội rễ của truyền giáo khi ngài nói, “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gal 2, 20). Kể chuyện về Đức Giêsu tại Á Châu đòi hỏi một sự gặp gỡ sống động của Giáo Hội với Đức Giêsu trong cầu nguyện, tôn kính, tương quan với con người, đặc biệt với người nghèo, và các sự kiện tạo thành “các dấu chỉ thời đại.”

 

  1. Câu chuyện của Đức Giêsu diễn tả căn tính của Giáo Hội giữa người nghèo, các nền văn hóa, các tôn giáo tại Á Châu

 

Giống như một câu chuyện biểu lộ căn tính cá nhân, một câu chuyện đức tin vào Đức Giêsu cũng mạc khải căn tính của người kể giống như một người tin. Một nhân chứng, người kể câu chuyện về việc gặp được Đức Giêsu của anh/chị ta, không thể và không nên che dấu căn tính của mình như là người môn đệ của Đấng Cứu Thế. Nhưng cũng giống như một mạng lưới các mối liên hệ với con người, văn hóa, và các tư tưởng xã hội tạo thành một câu chuyện hoặc căn tính cá nhân, như vậy là kể chuyện Kitô Giáo ở Châu Á được thực hiện trong mối quan hệ với những người khác. Căn tính Kitô Giáo và câu chuyện ở Á Châu thì luôn luôn liên hệ với các nền văn hóa và tôn giáo khác chứ không tách lìa khỏi họ. Câu chuyện của Đức Giêsu được kể bởi những người Kitô hữu Á Châu, những người đang sống với và ở giữa người nghèo, với những người khác văn hóa và tôn giáo ở Á Châu, họ đã xác định một phần căn tính và câu chuyện của mình là những người Châu Á. Thực tại của Á Châu đã được Jonathan Yun-Ka Tan gợi ý rằng sứ vụ đến với muôn dân (missio ad [toward] gentes)bây giờ nên được hiểu theo mô hình mới đó là, sứ vụ giữa hoặc cùng muôn dân (mission inter [among or with] gentes).[16]Tôi cho rằng missio ad genteskhông nên bị loại trừ nhưng nên được thay bằng inter gentes. Không bao giờ có một sứ vụ truyền giáo cụ thế đến với (towards)muôn dân mà cùng một lúc nó lại không với (with)muôn dân. Và sứ vụ truyền giáo cụ thể cùngmuôn dân khuyên khích sứ vụ truyền giáo đến vớimuôn dân. Vớicùngngười nghèo khổ, các nên văn hóa và các tôn giáo làm cho các Kitô hữu Á Châu là người Á Châu. Tôi tin rằng, việc hòa hợp những câu chuyện này có thể làm giàu cho vô số suy tư của FABC (Federation of Asian Bishops’ Conferences: Hội Đồng Giám Mục Á Châu) về truyền giáo như là đối thoại với người nghèo, với các nền văn hóa và với các tôn giáo tại Á Châu.[17]

 

  1. Giáo Hội gìn giữ ký ức về Đức Giêsu một cách sống động

 

Ở giữa và cho những người Á Châu khác, Giáo Hội kể chuyện về Đức Giêsu bằng cách giữ ký ức về Ngài một cách sống động. Giữ ký ức về Đức Giêsu không có nghĩa là khóa nó trong một lãnh vực tồn tại mà không thể chạm tới. Nó được gìn giữ khi nó được hợp lại và chia sẻ. Tín thác vào Chúa Thánh Thần và trung thành với ký ức đã được bảo vệ bằng truyền thống của Giáo Hội hoàn vũ, Giáo Hội tại Á Châu nên can đảm để tái khám phá những phương pháp mới trong việc kể chuyện về Đức Giêsu, tìm lại sức sống của nó và giải phóng các tiềm năng của nó đối với việc đổi mới của những thực tại Á Châu. Câu chuyện của Đức Giêsu không còn là việc trao ban sự sống khi nó được cất giữ như một kỷ vật ở trong bảo tàng. Trong Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu (EAs 19-20, 22), Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nêu ra thách đố trong việc tìm kiếm một khoa sư phạm mà nó có thể làm cho việc kể chuyện về Đức Giêsu gần gũi hơn với những sự nhạy cảm của người Á Châu, đặc biệt với các nhà thần học. Ngài đã khẳng định rằng cùng một câu chuyện có thể được kể bằng nhiều cách nhìn mới và trong ánh sáng của hoàn cảnh mới.

 

  1. Câu chuyện của Đức Giêsu cung cấp ý nghĩa về các biểu tượng đức tin của Giáo Hội

 

Chúng ta nói rằng các câu chuyện hàm chứa ý nghĩa thiêng liêng, luân lý và những sự nhận thức về tội lỗi được ôm ấp bởi một người. Nó có thể xảy ra rằng Giáo Hội được xác định bởi một số biểu tượng đã được “tiêu chuẩn hóa” hoặc rập khuôn của tín lý, luân lý và phụng tự mà câu chuyện mang lại động lực cho chúng bị quên lãng. Sau đó, chính các biểu tượng mất đi sức mạnh để đánh động con người. Các biểu tượng của đức tin phải được cắm rễ sâu trong câu chuyện căn bản của Đức Giêsu. Ví dụ, hành động bẻ bánh của bí tích Thánh Thể nên được nhìn nhận bằng nhiều câu chuyện của sự chia sẻ, nâng đỡ và hiệp nhất, nếu không có những điều này thì nghi thức bẻ bánh sẽ mất đi ý nghĩa của nó. Chiếc nhẫn của giám mục nên xuất phát từ một câu chuyện phục vụ sống động đối với cộng đoàn, nếu không có điều này thì chiếc nhẫn chỉ là một thứ đồ quý để trang sức. Biểu tượng của một linh mục như sự hiện diện của Đức Giêsu nên phát xuất từ một câu chuyện sống động về sự sẵn sàng cho mọi người, không có điều này thì thiên chức linh mục trở thành một cấp bậc hơn là một ơn gọi. Các biểu tượng đức tin phải phát xuất từ câu chuyện căn bản về Đức Giêsu.  Một sự trở về với câu chuyện của Đức Giêsu cũng có thể giúp cho Giáo Hội tại Á Châu điều chỉnh lại những dấu vết ngoại lai đã gắn liền với giáo lý, các nghi thức và biểu tượng của nó (EAs 20). Tách rời khỏi câu chuyện có nguồn gốc từ Đức Giêsu, các biểu tượng của Giáo Hội có thể kể về một câu chuyện xa lạ với chính Đức Giêsu.

 

  1. Câu chuyện của Đức Giêsu khai sinh Giáo Hội

 

Như chúng ta đã trình bày ở trên, các câu chuyện cũng hình thành một cộng đoàn. Trong kinh nghiệm và ký ức chung, các cộng đoàn tìm thấy sự gắn kết và giá trị chung. Ký ức chung của câu chuyện về Đức Giêsu được sinh ra bởi Chúa Thánh Thần là nguồn căn bản của sự hợp nhất và căn tính trong đức tin của Giáo Hội tại Á Châu. Kinh Thánh, các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể, giáo lý, các lễ nghi và toàn bộ Truyền Thống là những cách không ngừng kể chuyện về Đức Giêsu để gìn giữ ký ức của Ngài như trái tim của cộng đoàn Kitô hữu. Nhưng ý nghĩa này của cộng đoàn thì không phải là một lý do để cô lập Giáo Hội, cho nên nó có thể bảo vệ căn tính của nó. Câu chuyện của Đức Giêsu, cái làm nó trở thành cộng đoàn Kitô hữu, thì cũng giống như câu chuyện mà toàn thể cộng đoàn phải chia sẻ. Trong mô hình của việc kể chuyện, Giáo Hội đánh mất căn tính của mình nếu Giáo Hội kể sai bản chất/điểm chính yếu của câu chuyện. Đức Giêsu đã nói, “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8, 35-56). Điều này đã được FABC minh chứng rằng tất cả Giáo Hội được mời gọi thực thi sứ vụ truyền giáo.[18]Các Giáo Hội địa phương cần phải nhận thức và phát triển những quà tặng được linh hứng bởi Chúa Thánh Thần để họ có thể góp phần vào việc kể chuyện về Đức Giêsu. Toàn thể Giáo Hội, hoa quả của câu chuyện Đức Giêsu, trở thành người kể chuyện của nó.

 

  1. Một Giáo Hội lắng nghe kể chuyện về Đức Giêsu

 

Các câu chuyện tìm được sự trọn vẹn của chúng nơi người nghe. Nhưng những câu chuyện mà bị ép buộc thì không được nghe. Giáo Hội tại Á Châu phải tin vào khả năng của câu chuyện mà nó tạo ra, không có bất kỳ suy nghĩ nào áp đặt nó trên cái khác. Nó đã là một câu chuyện tuyệt vời mà chắc chắn nó sẽ đánh động ngay cả những người ít cởi mở. Trong Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói với chúng ta rằng chúng ta chia sẻ món quà của Đức Giêsu không phải để làm cho người khác từ bỏ tín ngưỡng của họ nhưng từ sự vâng phục đối với Thiên Chúa và như một hành động phục vụ cho con người tại Á Châu (EAs 20). Để câu chuyện nói và đánh động. Để Chúa Thánh Thần mở con tim và ký ức của người nghe và mời gọi họ biến đổi. Vô số người nghèo ở Á Châu có thể đang tìm kiếm lòng trắc ẩn và niềm hy vọng trong câu chuyện của Đức Giêsu. Các nền văn hóa của Á Châu sẽ vang dội với thách đố về sự tự do đích thực trong câu chuyện của Đức Giêsu. Các tôn giáo khác ở Á Châu sẽ kinh ngạc trước sự tôn trọng và sự cảm kích đối với những ai tìm kiếm Thiên Chúa và sự thánh thiện đích thực trong câu chuyện của Đức Giêsu. Giáo Hội tại Á Châu được mời gọi khiêm tốn để cho Thánh Thần tác động đến những người nghe. Như một người kể chuyện của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội tại Á Châu đi vào những thế giới và ngôn ngữ của người nghe và từ trong họ để kể câu chuyện về Đức Giêsu giống như ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.[19]Nhưng điều đó có nghĩa là Giáo Hội tại Á Châu phải là một Giáo Hội thật sự biết lắng nghe Thánh Thần và người nghèo, các nền văn hóa và các tôn giáo nếu Giáo Hội nói một cách thật sự ý nghĩa. Một Giáo Hội kể chuyện phải là một Giáo Hội biết lắng nghe.[20]

 

  1. Giáo Hội kể chuyện về Đức Giêsu bằng nhiều cách đa dạng

 

Các câu chuyện có thể được kể bằng nhiều cách khác nhau. Vậy, câu chuyện về Đức Giêsu thì sao? Với một di sản giàu có của việc kể chuyện thu được từ các gia đình, xóm làng, các tôn giáo và những sự khôn ngoan truyền thống ở Á Châu, Giáo Hội tại Á Châu có thể sáng tạo trong việc kể chuyện về Đức Giêsu. Chứng tá của một đời sống thánh thiện, đạo đức và liêm khiết vẫn đang là câu chuyện tuyệt vời nhất về Đức Giêsu tại Á Châu.[21]Đời sống của những người nam và người nữ thánh thiện và những người tử vì đạo diễn tả các câu chuyện của Đức Giêsu được khắc ghi trong các cá nhân và cộng đoàn.[22]Những người nam nữ đã hiến dâng chính mình để phục vụ tha nhân, như thánh Têrêsa Calcutta, là những câu chuyện sống động mà người Á Châu thích nghe. Bảo vệ người nghèo, đấu tranh cho công lý, thúc đẩy sự sống, chăm sóc người bệnh, giáo dục trẻ em và thanh thiếu niên, kiến tạo hòa bình, giảm bớt nợ nước ngoài và bảo vệ thiên nhiên là những cách kể chuyện về Đức Giêsu tại Á Châu ngày nay.[23]Nhưng Giáo Hội cũng phải sẵn sàng để đón nhận những cách kể chuyện bất ngờ về Đức Giêsu của Chúa Thánh Thần.

 

  1. Giáo Hội là tiếng nói của những câu chuyện bị che dấu

 

Sự che dấu các câu chuyện thật sự là một xì-căng-đan hàng ngày đang xảy ra tại nhiều nơi ở Á Châu. Người nghèo, thiếu nữ, phụ nữ, người tị nạn, người di dân, người thiểu số, người dân tộc, các nạn nhận của sự khác biệt giai cấp, chính trị, bạo lực sắc tộc và môi trường là những câu chuyện, nhưng một số câu chuyện của họ bị che dấu. Nhiều người sợ những câu chuyện mà họ sẽ kể. Hay là họ sợ nghe sự thật và các lệnh truyện của nó? Giáo Hội kể chuyện về Đức Giêsu mà những lời của Ngài thường rơi vào tai người điếc và người bị kết án, cho nên Ngài có thể bị ngăn cản để kể câu chuyện của mình. Như vậy, ở Á Châu, Giáo Hội tôn kính Đức Giêsu bằng cách trở thành những người kể chuyện về những người thấp cổ bé miệng, để tiếng nói của Đức Giêsu có thể được nghe trong những câu chuyện bị che dấu của họ.

 

Kết Luận

 

Truyền giáo bằng cách kể chuyện về Đức Giêsu đang diễn ra tại Á Châu. Chúng ta tôn vinh những người kể chuyện của Chúa Thánh Thần, có những câu chuyện, mặc dù bị che dấu, nhưng đã tạo ra nhiều câu chuyện mới trong đời sống của vô số anh chị em Á Châu.

Tôi kết thúc bằng cách trở về với Đức Giêsu, Ngôi Lời hoặc Câu Chuyện của Thiên Chúa và người kể chuyện tuyệt vời nhất về Vương Quyền của Thiên Chúa. Chúng ta hãy chiêm ngắm Ngài. Chúng ta hãy học nơi Ngài. Chúng ta hãy mở lòng mình ra với câu chuyện và cách kể chuyện của Ngài. Câu chuyện của Ngài là kinh nghiệm về Cha (Abba) và một sự sống tròn đầy mà Cha đã ban tặng. Đời sống và căn tính của Ngài đã được cắm rễ trong sự hiệp nhất liên lĩ với Cha. Ngài đã sống như một người Do Thái bình thường, một người Á Châu bình thường, với gia đình, bạn bè, đàn bà, trẻ em, những người ngoại quốc, những nhân viên đền thờ, các thầy thông luật, người nghèo, người bệnh, người không có bạn bè, người tội lỗi và kẻ thù. Họ là tất cả những gì mà Ngài là. Ngài đã tập họp một cộng đoàn, một gia đình mới của những người nghe Lời Chúa và đem ra thực hành. Ngài đã kể cho họ những câu chuyện về Cha và đời sống trong Cha. Ngài đã dùng ngôn ngữ của họ. Những dụ ngôn của Ngài thì đơn giản nhưng chưa được giải đáp. Ngài kể cho họ về Cha thông qua những bữa ăn, việc chữa lành, sự cảm thông, lòng thương xót, sự tha thứ, và phê phán lối sống đạo đức giả. Câu chuyện của Ngài dẫn Ngài tới bữa ăn huynh đệ, ở đó Ngài đã trở thành của ăn và ở đó Ngài đã rửa chân cho các bạn của mình. Không gì có thể ngăn cản Ngài kể câu chuyện của mình, ngay cả khi trên thập giá. Cái chết nhục nhã của Ngài là cái kết của câu chuyện cuộc đời Ngài. Nhưng Cha đã có điều gì đó để nói, “Con Của Ta – Ngài đã thật sự trỗi dậy.” Đổ món quà Chúa Thánh Thần của Ngài vào trong tâm hồn chúng ta, Đức Giêsu trao câu chuyện của Ngài cho chúng ta. Tôi nghe Ngài đang nói, “Hãy nghe câu chuyện của tôi. Rồi đi và tiếp tục kể nó ở những nơi mà nó chưa được kể – trong gia đình tôi, trong lục địa Á Châu yêu dấu của tôi!”

 

Lm. Ant. Nguyễn Huy Quyền, SVD

Chuyển ngữ

 

[1]Đây là bài nói chuyện của Đức Hồng Y Luis Antonio G. Tagle tại Đại Hội Về Truyền Giáo Của Á Châu, tổ chức tại Chiang Mai, Thái Lan, ngày 19 tháng 10 năm 2006. Nguyên bản có tựa đề: Mission in Asia: Telling the Story of Jesus, được lấy từ website của FABC (Federation of Asian Bishops’ Conferences: Hội Đồng Giám Mục Á Châu).

[2]Công Đồng Vatincano II, Ad Gentes6.

[3]Cf. Gioan Phaolô II, Sứ Vụ Đấng Của Cứu Thế (Redemptoris Missio)41.

[4]Cf. Gioan Phaol ô II, Giáo Hội Tại Á Châu (Ecclesia in Asia)10.

[5]Michael L. Cook, SJ., Christology as Narrative Quest(Collegevill, MN: 1997).

[6]Cf. Rechard Woods, OP., “Good New: The Story Teller as Evangelist,” New Blackfriars81 (2000): 206.

[7]Ibid. p.205.

[8]Cf. Richard Bayuk, CPPS., “Preaching and the Imagination,” Bible Today 38 (2000): 289-292.

[9]Cf. Cook, p.31.

[10]Cf. Jose Mario C. Francisco, SJ., “The Mediating Role of Narrative in Inter Religious Dialogue: Implications and Illustrations from the Philippine Context,” East Asian Pastoral Review 41(2004): 164.

[11]Cf. Bayuk, p. 289.

[12]Ibid., p. 290.

[13]Cook, p. 39.

[14]Xem các nghiên cứu sau của Michael Amaladoss, SJ., “Các Khuôn Mặt Của Đức Giêsu Ở Ấn Độ,” East Asian Pastoral Review31 (1994): 6-20 và “‘Anh Em Bảo Thầy Là Ai?’ Nói Về Đức Giêsu Ở Ấn Độ Hôm Nay,” East Asian Pastoral Review 34 (1997): 211-224.

[15]Evangelii Nuntiandi41.

[16]Jonathan Yun-Ka Tan, Missio Inter Gentes: Toward a New Paradigm in the Mission Theology of the FABC, FABC Papaers No. 109.

[17]The Fundamental document is FABC I (1974), “Evangelization in Modern Day Asia”, especially # 12, 14, 20, G. Rosales and C. G. Arevalo, editors, For All the People of Asia, Volume I (Quezon City: Claretian Publications, 1997), p. 11-25. Many plenary assemblies and institutes of the FABC are further elucidations of the basic insight of FABC I in changing circumstances.

[18]Xem BIMA III (Third Bishops’ Institute for Missionary Apostolate, 1982), #5, Ibid., p. 104.

[19]Cf. BIRA IV/12, (Twelfth Bishops’ Institute for Interreligious Affairs on the Theology of Dialogue, 1991), #42-47, Ibid., p. 332.

[20]Cf. BIRA I (First Bishops’ Institute for Interreligious Affairs, 1997), #11-14, Ibid., p. 111.

[21]Cf. BIRA III (Third Bishops’ Institute for Missionary Apostolate, 1982), #10, Ibid., p. 105.

[22]Cf. Fracisco, p. 167.

[23]Cf. EAs #33-41.

Bài trướcĐức Thánh Cha Phanxicô sẵn sàng đến thăm Bắc Hàn vì nền hòa bình của bán đảo Triều Tiên
Bài tiếp theoHọ đạo Mỹ Sơn: Nghi Thức Làm Phép Nhà Mục Vụ và Thánh Lễ Ban Bí Tích Thêm Sức

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

The reCAPTCHA verification period has expired. Please reload the page.