Bài Ðọc I: Cv 15, 1-2. 22-29
“Thánh Thần và chúng tôi xét rằng không nên đặt thêm gánh nặng nào khác ngoài mấy điều cần kíp”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, có mấy người từ Giuđêa đến dạy bảo các anh em rằng: “Nếu anh em không chịu cắt bì theo luật Môsê, thì không được cứu độ”. Do đó, Phaolô và Barnaba đã tranh luận gắt gao với họ. Bấy giờ người ta quyết định là Phaolô, Barnaba và một ít người khác thuộc phe họ, lên Giêrusalem gặp các Tông đồ và niên trưởng, để xin giải quyết vấn đề này.
Bấy giờ các Tông đồ, kỳ lão, cùng toàn thể Hội thánh chấp thuận chọn ít người trong các ngài, và sai đi Antiôkia với Phaolô và Barnaba: đó là Giuđa, gọi là Barsaba, và Sila, những vị có uy thế giữa anh em. Các ngài nhờ tay hai ông chuyển bức thơ viết như sau:
“Anh em Tông đồ và kỳ lão chúng tôi kính chào các anh em thuộc dân ngoại ở Antiôkia, Syria và Cilicia. Chúng tôi nghe tin rằng có mấy người trong chúng tôi đã đến nói những lời gây hoang mang và làm cho tâm hồn anh em xao xuyến, chúng tôi không uỷ quyền cho họ, vì thế chúng tôi họp lại, đồng ý chọn một ít người và sai đến anh em làm một với Barnaba và Phaolô, những anh em yêu quý của chúng tôi, tức là những người đã liều mạng sống mình vì danh Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vậy chúng tôi đã sai Giuđa và Sila đến nói miệng với anh em cũng chính những lời này: Thánh Thần và chúng tôi xét rằng không nên đặt thêm cho anh em gánh nặng nào khác ngoài mấy điều cần kíp này là anh em hãy kiêng đồ cúng thần, huyết, thịt thú chết ngạt và gian dâm; giữ mình khỏi các điều đó là anh em làm phải. Chúc anh em vạn an”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 66, 2-3. 5-6 và 8
Ðáp: Chư dân, hãy ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài (c. 4).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Xin Thiên Chúa xót thương và chúc phúc lành cho chúng con, xin chiếu giãi trên chúng con ánh sáng tôn nhan Chúa, để trên địa cầu người ta nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân thiên hạ được biết rõ ơn Ngài cứu độ. – Ðáp.
2) Các dân tộc hãy vui mừng hoan hỉ, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu. – Ðáp.
3) Chư dân, hãy ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài! Xin Thiên Chúa chúc phúc lành cho chúng con, và cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài. – Ðáp.
Bài Ðọc II: Kh 21, 10-14. 22-23
“Người chỉ cho tôi thấy thành thánh do Thiên Chúa từ trời gởi xuống”.
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Thiên Thần đem tôi lên một núi cao chót vót khi tôi ngất trí, và chỉ cho tôi thấy thành thánh Giêrusalem từ trời nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa. Ánh sáng của nó toả ra như đá quý, giống như ngọc thạch, óng ánh tựa pha lê. Thành có tường lũy cao lớn, trổ mười hai cổng, trên các cổng có mười hai thiên thần, và có khắc tên mười hai chi họ con cái Israel. Phía đông có ba cổng, phía bắc có ba cổng, Phía nam có ba cổng, và phía tây có ba cổng. Tường thành xây trên mười hai móng có khắc tên mười hai tông đồ của Con Chiên. Còn đền thờ, tôi không thấy có trong thành, vì Thiên Chúa toàn năng và Con Chiên là đền thờ của thành. Thành không cần mặt trời, mặt trăng chiếu soi: vì đã có vinh quang Thiên Chúa chiếu sáng nó, và đèn của nó chính là Con Chiên.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. – Alleluia.
Phúc Âm: Ga 14, 23-29
“Thánh Thần sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. Kẻ không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Lời các con nghe, không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Ðấng đã sai Thầy. Thầy đã nói với các con những điều này khi còn ở với các con. Nhưng Ðấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con. Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi. Các con đã nghe Thầy nói với các con rằng: Thầy đi, rồi Thầy trở lại với các con. Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con hãy vui mừng vì Thầy về với Cha, bởi lẽ Cha trọng hơn Thầy. Giờ đây Thầy nói với các con trước khi việc xảy ra, để khi việc xảy ra, thì các con tin”.
Ðó là lời Chúa.
Ghi Chú: Khi cử hành Lễ Thăng Thiên vào Chúa Nhật tới, thì trong Lễ Chúa Nhật VI Phục Sinh hôm nay có thể đọc Bài đọc II và Bài Tin Mừng của Chúa Nhật VII Phục Sinh.
Bài giảng chủ đề:
BÌNH AN CHO ANH EM
Lm. Giuse Trần Minh Kiểm, SVD
Mỗi dịp tiễn người thân đi xa, chúng ta thường cầu chúc cho nhau: chúc anh (chị) lên đường bình an. Trên những chuyến xe khách, xe buýt, người ta thường thấy những hàng chữ “chúc quý khách thượng lộ bình an”. Tài xế Công giáo thường treo hình Đức Mẹ trên xe có kèm theo hàng chữ “Nữ Vương ban sự bình an”. Tài xế Phật giáo treo hình Đức Phật, dù có hay không có hàng chữ nào, trong lòng họ vẫn cầu mong Đức Phật ban bình an.
Trong Kinh Thánh
Khi Đấng Cứu Thế giáng sinh tại Bêlem, các thiên thần ca hát vang dội: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2,14). Khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin mừng cứu độ, Chúa căn dặn các ông: Vào nhà nào anh em hãy chúc bình an cho họ (Lc 10, 5). Khi giã từ các môn đệ như trong Tin Mừng hôm nay, Chúa hứa ban bình an cho các ông (Ga 14, 27), và sau khi sống lại từ cõi chết, lời đầu tiên Chúa nói với các môn đệ là: bình an cho anh em (Lc 24, 36). Vậy, bình an mà Đức Giêsu để lại có giống như bình an mà chúng ta cầu chúc cho nhau không?
Thưa khác, khi phân tích theo Hán tự, chúng ta biết: chữ “bình” có nghĩa là bằng phẳng, hòa hợp, thoải mái; chữ “an” có nghĩa là được bảo vệ, được an toàn. Như vậy, “bình an” nói lên trạng thái của tâm hồn, trạng thái nội tâm thư thái, an hòa, vui tươi, bình thản. Và chúng ta cũng phải biết rằng: bình an khác với hòa bình. Hòa bình nói lên trạng thái bên ngoài: không còn chiến tranh, không súng đạn, gươm đao. Cho nên có khi có hòa bình nhưng chưa chắc có bình an.
Chính vì thế, bình an mà anh em chúng ta cầu chúc cho nhau mỗi khi lên đường đi xa có thể hiểu theo hai phương diện: bên ngoài: không có gì xảy ra; bên trong: tâm hồn được bình thản, không lo lắng. Đó là bình an của thế gian.
Còn bình an của Đức Giêsu là gì?
Theo phong tục của người Do thái, khi từ giã nhau, người ta chào nhau bằng “bình an”. Đức Giêsu cũng theo phong tục đó, thế nhưng bình an của Người để lại không như bình an của những người Do thái, bởi vì người Do Thái chỉ cầu chúc bình an cho nhau được bình an chứ không thể ban bình an. Đức Giêsu chính là sự bình an, Người ban bình an riêng của Người, tiếng Hípri gọi là “shalom”. Vâng, người Do Thái không thể tự ban bình an, nhưng mượn bình an để cầu chúc cho nhau, còn Đức Giêsu thì chính Ngài ban bình an của Ngài.
Ở bài đọc 1, khi biết cộng đoàn gồm các tín hữu gốc dân ngoại đang hoang mang vì những tin của các ngôn sứ giả, các tông đồ đã viết thư trấn an họ và “cầu chúc anh em vạn an”. Ở đây, ta thấy các tông đồ chỉ có thể cầu chúc cho họ được bình an. Còn Đức Giêsu khi biết các môn đệ đang lo sợ vì sự ra đi của Người, Người đã ban bình an của Người cho họ. Từ Đức Giêsu sử dụng là “shalom”. Đây là sự bình an nền tảng nhất. Bình an này không như của thế gian cầu chúc cho nhau. Bình an Đức Giêsu trao tặng chính là “Ơn Cứu Độ”, là “Sự thật”, là “Ánh sáng”, và là “Niềm vui”. Đây là yếu tố nền tảng trong bài Tin Mừng hôm nay. Đức Giêsu đã để lại bình an cho các môn đệ bởi vì chính Người là sự bình an: “Thầy ban cho các con sự bình an của Thầy”.
Vậy chúng ta phải làm gì để được ơn bình an mà Đức Giêsu ban tặng?
Tin Mừng hôm nay đã mách lối cho chúng ta biết rằng, bình an thực sự có được khi chúng ta thực hiện hai điểm sau:
Thứ nhất: “Ai yêu mến thầy thì giữ lời Thầy”. Khi kết thúc thánh lễ, linh mục chủ tế đều chúc cho cộng đoàn: “Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an”. Bình an đó sẽ có được khi Đức Kitô hiện diện thì bình an của Người sẽ ở lại với anh em qua việc lắng nghe Lời và tham dự tiệc Thánh thể.
Thứ hai: Không phải chỉ nghe mà còn phải thực hành. Không thể có bình an nếu không có sự tha thứ: “Các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34). Sống ở đời chắc chắn sẽ không thể không xảy ra những va chạm, va chạm từ trong gia đình chưa đủ, rồi và chạm bên ngoài… Vì vậy, chúng ta phải khiêm tốn nhìn nhận mình là tội nhân, nhìn nhận mình yếu đuối, để xin Chúa thứ tha và ta cũng biết tha thứ cho nhau. “xin tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha nợ cho kẻ mắc nợ với chúng con”
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: “Con đường của bình an chung cục phải đi qua trong tình thương và hướng tới việc tạo nên một nền văn minh tình thương.” (Dominum et Vivificantem số 67). Chúng ta là những Kitô hữu, chúng ta chưa thể thay đổi một thế giới đang còn nhiều vấn đề như hiện nay, và chúng ta chưa thể đưa Chúa đến với anh chị lương dân quanh chúng ta, nhưng ít ra chúng ta có thể mang lại một sự bình an đến cho họ qua cung cách hiện diện và phục vụ của chúng ta.
Tôi có dịp thăm trại Siđa Mai Hòa ở Củ Chi do các nữ tu Sơ Bác Ái Vinh Sơn đảm nhiệm. Trung tâm chỉ đón nhận bệnh nhân ở giai đoạn ba là giai đoạn cuối cùng, là xem như hết, cầm chắc cái chết. Thế nhưng, ngược lại với suy nghĩ của tôi, các bệnh nhân vui vẻ đón tiếp tôi. Các bệnh nhân trẻ thì đi học giáo lý, sinh hoạt với cộng đoàn giáo xứ ở gần đó. Các bệnh nhân lớn thì ở nhà vui vẻ tiếp chuyện. Sơ trưởng cộng đoàn chia sẻ: “Ở trung tâm điều kiện y tế và trình độ bác sĩ không thể bằng ở các cơ sở của nhà nước được, thế nhưng các bệnh nhân sớm khỏe lại và trở về với cộng đồng với tỉ lệ rất cao. Có trường hợp về cưới vợ và sinh con nữa, giống như có phép lạ”. Vâng, các Sơ chẳng có phép lạ nào cả, chính qua cung cách phục vụ và với tấm lòng yêu thương, chia sẻ nỗi đau với bệnh nhân, các sơ đã khơi dậy trong tâm hồn họ sự thư thái và bình an, để họ có thêm động lực chiến đấu với bệnh tật.
Tin mừng Chúa Nhật VI Phục Sinh hôm nay Đức Giêsu đã để lại cho chúng ta một gia tài cao quý, đó là ơn bình an, là sự giao hòa cùng Thiên Chúa. Nhưng để được hưởng trọn vẹn gia tài này, mỗi người chúng ta phải thực thi Lời Chúa dạy và phải yêu mến nhau. Chúc anh em được bình an. Amen.
TÂM TÌNH MẠC KHẢI
Lm. Antôn Nguyễn Tất Bính, SVD
Đời sống đức tin của các tín hữu công giáo gắn liền với những ân ban từ chính Thiên Chúa. Do đó, việc canh tân đời sống thiêng liêng gắn liền việc nỗ lực canh tân đời sống bản thân với việc nối kết với Chúa Ba Ngôi trong mối tương quan tình yêu hiệp thông. Cụ thể là yêu mến Chúa Giêsu, tuân giữ lời Người, tức là Lời của Chúa Cha (x. Ga 14,24) và đặt mình dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, “Đấng sẽ dạy anh em mọi điều”. Làm như thế, người tín hữu sẽ gặp được hạnh phúc không chút ngờ vực, được kết tinh và đống ấn bởi chính Thiên Chúa. Như vậy, mỗi cuộc sống Kitô hữu là chứng nhân đích thực của Đức Kitô, trở thành một nơi chốn mà ở đó Thiên Chúa tự tỏ mình ra bằng những hoa quả linh thiêng là dấu ấn của ngài.
- Ai Yêu Mến Thầy, Thì Sẽ Giữ Lời Thầy
Tình yêu không thể là lý thuyết suông. Tình yêu không đòi hỏi sự khôn ngoan nhân loại, sự lý luận của khối óc con người. Nhưng tình yêu chân thành hệ tại ở việc biết lắng nghe và chỉ muốn làm theo ý người mình yêu và tự đặt mình trong tình trạng luôn sẵn sàng và tự trang bị một khả năng dễ chịu, dễ nghe, dễ bảo, dễ chiều, dễ thương đối với người yêu. Do đó, Chúa Giêsu muốn chúng ta yêu mến Chúa không bằng tâm tình trừu tượng nhưng bằng việc làm cụ thể là tuân giữ những lời Chúa truyền dạy. Theo kiểu nói Phúc Âm, các môn đệ biết rằng yêu Chúa Giêsu đầu tiên cốt tại “giữ lời Ngài”, nghĩa là nhận ra trong sứ điệp của Ngài những đòi hỏi và những ân huệ của tình yêu Thiên Chúa và đáp trả bằng sự dấn thân cả đời sống cách đích thực và quảng đại.”[1] Khi thực hành như thế người tín hữu được bước vào trong mối tương quan hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa. Vì “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. Đây là sự hiện diện trực tiếp của chính Thiên Chúa trong nội tâm và tình yêu; lời hứa tuyệt vời của Đức Giêsu là vậy. Những ai chối từ tình yêu Thiên Chúa thì không thể thấu triệt việc Thiên Chúa Ba Ngôi đến cách vô hình mà Chúa Giêsu vừa loan báo cho những ai yêu mến Ngài. Những ai khước từ việc tuân giữ lời Chúa cũng đồng nghĩa với việc không biết Chúa Giêsu, và do đó cũng không thể biết được Chúa Cha – Đấng là nguồn của những thông điệp mà Chúa Giêsu loan báo. Như vậy, chính nhờ yêu (giữ lời Chúa) mà đời sống người Kitô hữu có giá trị. Chính vì yêu mà việc giữ đạo có mục đích. Chính bởi tình yêu mà đời sống người Công Giáo có ý nghĩa và cũng chính trong tình yêu mà việc sống đạo được thực hiện. Tuy nhiên, làm thế nào để có thể yêu mến và tuân giữ lời Chúa nếu không được hướng dẫn.
- Được Hướng Dẫn Bởi Thánh Thần.
Khi ở với các môn đệ Chúa Giêsu đã đào tạo và dạy dỗ họ, tỏ cho họ biết chương trình của Thiên Chúa trên nhân loại. Các môn đệ cần phải đào sâu và thực hiện những điều Chúa Giêsu đã truyền dạy. Nhưng sự đào sâu và thực hiện ấy không phải là kết quả của những nỗ lực suy tư và hiểu biết nhân loại, nhưng là nhờ “Đấng Bảo Trợ, là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến” (Ga 14,26). Chính Thánh Thần sẽ dạy họ mọi điều và sẽ làm cho họ nhớ lại tất cả những điều Chúa Giêsu đã dạy dỗ họ. Bởi có rất nhiều khía cạnh của cuộc đời và sứ điệp của Chúa Kitô mà các đồ đệ chưa hiểu thấu: “Lúc đầu, các môn đệ không hiểu những điều ấy” (Ga 12,16). Và Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ sẽ giúp họ.
Thánh Thần: Thần Khí của Thiên Chúa được xác định rõ ở đây là Thánh Thần. Hạn từ “Thánh” ở đây mang một nghĩa kép, vừa chỉ phẩm chất vừa chỉ hoạt động của Thần Khí: Thần Khí là thánh và Đấng tác thánh. Người đến từ Thiên Chúa nên Người hoàn toàn khác biệt với mọi thực tại phàm nhân: Người là Thánh. Người thuộc về cảnh vực thần linh. Nhưng đồng thời, Người cũng là Đấng làm nên sự tách biệt, tức là Người là Đấng hiến thánh, Đấng tác thánh. Người tách biệt con người khỏi tối tăm, khỏi thế gian sa đọa, đưa họ vào vùng ánh sáng và vào cõi sống là thế giới của Thiên Chúa.[2]
Đấng Bảo Trợ: “Đây là một từ ngữ của giới pháp đình: một kẻ đến gần để giúp đỡ, che chở, bảo vệ, bào chữa, ủi an, cố vấn”[3]. Như vậy, Thần Khí của Thiên Chúa cũng được xác định là một thực tại năng động và bản vị. Người là Đấng Bảo Trợ do Chúa Cha sai đến. Người sẽ dạy các đồ đệ mọi điều. Hoạt động của Người sẽ trải dài trong thời gian. Nhưng Người không nói tự mình, mà là nhắc nhở và làm cho các đồ đệ Đức Giêsu hiểu thấu những gì mà Đức Giêsu đã dạy họ.
Đức Giêsu quả quyết: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26). Thánh Thần giúp Hội Thánh dần dần hiểu thấu đáo và sâu xa hơn những điều chính Chúa Giêsu đã truyền dạy và mạc khải. Tức là Thánh Thần sẽ làm cho người ta nhận biết Chúa Giêsu và sẽ xác nhận công trình của Chúa Giêsu. Vì thế, dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, Hội Thánh và mỗi người tín hữu luôn được mời gọi làm mới mình.
- Đức Tin Vào Chúa Ba Ngôi Là Nền Tảng Của Đời Sống Đạo Của Người Kitô Hữu.
Chúa Giêsu nói: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Và “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều”… (Ga 14,26). Như thế, giữa Chúa Cha, Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần có một mối liên kết và hiệp thông sâu xa. Mầu nhiệm liên kết và hiệp thông sâu xa ấy là nguồn mạch ơn cứu độ của chúng ta. Bằng những thổ lộ này, Chúa Giê su đã mặc khải những điểm thần học quan trọng về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Và đây chính là nền tảng căn bản của đức tin chúng ta. Tuy nhiên, người tín hữu ít khi được nghe giảng về niềm tin vô cùng quan trọng này. Một trong những nguyên do là giáo lý Ba Ngôi thường được trình bày một cách siêu hình, trừu tượng, khô khan, thiếu mạch lạc và thiếu những áp dụng thực tiển. Do đó, chúng ta, người tín hữu hôm nay cần khơi dậy đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi trong các buổi cử hành phụng vụ cụ thể. Chẳng hạn, người tín hữu cần ý thức sâu sắc với việc làm dấu thánh giá: Nhân Danh Cha, và Con và Thánh Thần mỗi khi thưc hiện như một sứ điệp cứu độ và trung tâm của đời sống. Nếu chúng ta ý thức về Chúa Ba Ngôi trong lời kinh nguyện, chúng ta sẽ thấy Đức Kitô cùng với Thánh Thần đáng được phụng thờ như Thiên Chúa, và chúng ta sẽ nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, mà quy về Chúa Cha mọi lời chúng tụng và tôn vinh.
Ngoài ra, khi tuyên xưng vào Một Thiên Chúa Ba Ngôi chúng ta cần phải diễn tả sự hiệp thông với Giáo Hội. Trở nên người Kitô hữu tức là đáp trả những mạc khải của Thiên Chúa và tiếp nhận đức tin từ Giáo Hội. Ý thức được những điều đó, chúng ta mới nghiêm túc nói về một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, nhờ Chúa Thánh Thần, nghĩa là chính mầu nhiệm của Chúa Ba Ngôi.
Nói tóm lại, việc yêu mến Chúa Giêsu bằng việc sống lời Ngài, người tín hữu sẽ bước vào trong mối tương quan hiệp thông mật thiết của Chúa Cha và Chúa Con. Đây là khẳng định của Chúa Giêsu. Do đó, mỗi Kitô hữu chúng ta, bằng tình yêu chứ không phải sợ hãi, phải chấp nhận đổi mới và hoán cải, bước theo Chúa Kitô bằng cách đặt mình dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần để Ngài ghi khắc vào trong tâm hồn mỗi người hình ảnh thanh khiết của Ba Ngôi Thiên Chúa. Để Ngài điều hướng tư duy, và hành động của chúng ta theo những yêu sách của Ngài. Và như thế chúng ta sẽ có một sự bảo đảm tối hậu về sự phong phú có tính cách nhân linh và tâm linh của một người con Chúa để sống, phục vụ, ngợi khen, cảm tạ và suy niệm.
————–
[1] Xc. om/chgpvinh.cua-nhat-vi-phuc-sinh-nam-c-cac-bai-suy-niem-chu-giai-loi-chua-5755#CN6PS-C_66
[2] Nguyễn Thê Hiện, Thánh Thần Sẽ Dạy Anh Em Mọi Điều, http://dcctvn.org/thanh-than-se-day-anh-em-moi-dieu-ga-1423-29-cn6-ps/
[3] Phan Tấn Thành, Mầu Nhiệm Thiên Chúa, Học Viện Đa Minh 2012, tr. 175.
THẦY BAN CHO ANH EM BÌNH AN CỦA THẦY
Tu sĩ Gioan Baotixita Phan Lĩnh, SVD
Chúa nhật thứ VI mùa Phục Sinh, phụng vụ Giáo Hội mời gọi người Kitô hữu chuẩn bị tâm hồn cho hai biến cố lớn: Chúa Giêsu lên trời và đón mừng Chúa Thánh Thần hiện xuống. Diễn từ giã biệt của Đức Giêsu được dành cho các môn đệ trước khi Người về trời.
Bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay khởi đi từ câu hỏi của của môn đệ Giuđa, “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” (Ga 14,22). Trả lời cho thắc mắc này, Đức Giêsu một lần nữa nhắc lại cho các môn đệ về sứ vụ của Ngài. Sứ vụ cứu độ nhân loại của Đức Giêsu cũng đồng thời là sự mạc khải về Chúa Cha và ơn thánh hoá của Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ sẽ đến để đồng hành với các môn đệ, cũng là đồng hành với Hội Thánh.
Sự hiểu biết và tình yêu mến là những nhu cầu không thể thiếu trong đời sống con người. Hành trình của cuộc đời người Kitô hữu là hành trình tìm kiếm Thiên Chúa và khám phá tình yêu của Người dành cho mình. Ấy thế mà thời nào cũng vậy, mầu nhiệm Thiên Chúa và kế hoạch của Người lại là điều vượt sức hiểu biết của nhân thế. Các môn đệ được sống và bước theo Đức Giêsu nhiều năm tháng, nhưng những lời giảng dạy của Đức Giêsu nhiều khi vẫn là điều khó hiểu đối với các ông. Hiểu được điều đó, Đức Giêsu một lần nữa giảng giải cho các ông về mối tương quan của Người với Chúa Cha. Người luôn yêu mến và vâng lời Chúa Cha nên đã hạ mình đến cứu độ trần thế.
Chúng ta để ý trong khi giảng giải cho các môn đệ, Đức Giêsu nhấn mạnh đến lòng yêu mến: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy”. Lòng yêu mến là mối dây gắn chặt ta với Thiên Chúa. Nhờ yêu mến, con cái Thiên Chúa có thể vượt qua những nghi ngại do trí hiểu thấp kém; lòng yêu mến cũng giúp sức cho chúng ta bước đi trong đường lối của Chúa. Lòng yêu mến là điều Thiên Chúa muốn nơi con người, và cũng nhờ lòng yêu mến, con người quyết tâm giữ lòng trung tín với Thiên Chúa. Nhờ lòng yêu mến Thiên Chúa, người Kitô hữu sống với tấm lòng rộng mở, biết chạnh lòng thương xót, biết chia sẻ và sẵn sàng phục vụ anh chị em, phục vụ cộng đoàn của mình. Trái lại, nếu không có lòng yêu mến, chúng ta dễ trở thành người sống vô tâm với anh chị em, dễ cáu gắt, nóng nảy, chai đá đối với các bổn phận đạo đức; không có lòng yêu mến tha nhân, chúng ta dễ sống với trái tim khép chặt, chỉ biết chăm lo cho bản thân mà thôi.
Chúng ta biết rằng, những lời của Đức Giêsu nói hôm nay nằm trong phần diễn từ giã biệt của Đức Giêsu đối với các môn đệ. Người nói lời giã biệt trước khi bước vào cuộc khổ nạn ở Giêrusalem. Bối cảnh này giúp chúng ta hiểu được tâm tình của Thầy Giêsu trước khi Người đi xa. Đức Giêsu biết rằng, khi Người ra đi, các môn đệ sẽ lo lắng và bị bách hại. Chính vì thế, Người đã động viên các ông rằng: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy.”
Đức Giêsu biết sự yếu đuối của các môn đệ, Người cho biết, Thiên Chúa Cha sẽ sai Đấng Bảo Trợ đến. Thánh Thần giúp mạc khải sự thật về Thiên Chúa Ba Ngôi và về con người. Thánh Thần đồng thời cũng mạc khải cho chúng ta biết đâu là những tương quan đích thực phải có với Thiên Chúa và với tha nhân. Thánh Thần sẽ cho các môn đệ nhận biết được Thiên Chúa là ai. Người Kitô hữu chúng ta cũng được mời gọi hãy biết đón nhận và cầu xin ơn thiêng Chúa Thánh Linh. Nhờ Thần Khí soi dẫn, người Kitô hữu có thể can đảm sống đức tin và can đảm sống giới răn mến Chúa yêu người.
Trong thư gửi tín hữu Rôma, thánh Phaolô nhắc nhở các Kitô hữu: “Phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa. Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó, chúng ta được kêu lên: Ápba! Cha ơi!” (Rm 8, 14-15). Lời nhắn nhủ này của thánh tông đồ giúp chúng ta xác tín vào ân sủng Chúa trong hành trình của mình. Nhờ sức mạnh của Thánh Thần, chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa, được trở nên nghĩa tử của Người. Trong Thần Khí, chúng ta trở nên rất gần gũi với Thiên Chúa, không còn xa lạ đối với Người. Chúng ta cũng không đơn độc trong hành trình tìm kiếm Thiên Chúa, vì đã có Thần Khí luôn đồng hành và thánh hoá hành trình cuộc sống và sứ vụ của người Kitô hữu chúng ta.
Nhờ ân sủng Chúa Thánh Linh, chúng ta hiểu được phần nào tình yêu cao cả của Thiên Chúa đối với nhân thế. Nhờ cuộc phục sinh của Đức Kitô, giờ đây Thiên Chúa không còn ở xa chúng ta; Người không còn ẩn khuất nhưng luôn hiện diện trong mầu nhiệm hiến tế, vì Người là Thiên Chúa luôn ở cùng chúng ta. Thiên Chúa gần gũi đến mức biến chúng ta thành chi thể của Người, là đền thờ của Thiên Chúa. Có người cho rằng muốn nhận ra Người, chẳng cần đi đâu xa, mà hãy đi sâu vào trong sâu thẳm nhất của lòng mình, nơi Thiên Chúa Ba Ngôi hằng ngự trị. Chúng ta yêu mến Thiên Chúa và vì thế, chúng ta cũng yêu mến tha nhân.
Quả thật, thay vì để chúng ta đi tìm, Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa lại chủ động đến với chúng ta; Người hằng tìm kiếm chúng ta, và Thánh Thần của Người vẫn luôn đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình trần thế.
Bài đọc I trích từ sách Công Vụ Tông Đồ minh chứng cho ta về hoạt động của Chúa Thánh Linh. Ơn đặc tuyển của Thiên Chúa được dành cho dân Israel; đó là niềm tự hào của họ trước mặt các dân tộc khác qua bao nhiêu ngàn năm cho tới thời của Đức Giêsu. Nhờ ngọn lửa của Chúa Thánh Linh, chúng ta hiểu được rằng, ơn cứu độ là dành cho tất cả mọi dân. Khi được đón nghe lời Chúa dạy, các dân tộc khác cũng được đón nhận sức sống của Chúa Thánh Thần. Vì tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, giờ đây muôn dân cũng được biến đổi, được gia nhập vào cộng đoàn dân thánh; họ cũng trở thành con cái Thiên Chúa, chứ không còn là dân ngoại, không còn ô uế thù địch nữa. Cuối cùng, sống với Thần Khí, sống với một trái tim rộng mở chính là bình an của Thiên Chúa, bình an được Đức Kitô ban tặng khi Người bước vào cuộc khổ nạn. Ơn bình an trong Thánh Linh là niềm khao khát và là sức mạnh giúp chúng ta vững tâm với niềm hy vọng sự sống vĩnh cửu trong Nước Trời mai sau.
Nhiều lúc trong cuộc sống, chúng ta không đánh giá cao sự hiện diện của Chúa. Vì yếu đuối và lòng trí tối tăm, chúng ta không muốn thực thi đức ái đối với tha nhân. Và như vậy, thật khó để chúng ta cảm nhận được bình an của Chúa. Xin ngọn lửa Phục Sinh của Con Chúa tiếp tục soi chiếu mạnh mẽ trong cõi lòng chúng ta; xin Thần Khí Chúa đốt cháy niềm khao khát ơn cứu độ nơi chúng ta, để nhờ đó, chúng con được đón nhận ơn bình an đích thực của Chúa.