Bài Ðọc I: Cv 14, 20b-26
“Các ngài thuật lại những gì Thiên Chúa đã làm với các ngài”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phaolô và Barnaba trở lại Lystra, Icôniô và Antiôkia, củng cố tinh thần các môn đồ, khuyên bảo họ giữ vững đức tin mà rằng: “Chúng ta phải trải qua nhiều nỗi gian truân mới được vào nước Thiên Chúa”. Nơi mỗi hội thánh, các ngài đặt những vị niên trưởng, rồi ăn chay cầu nguyện, trao phó họ cho Chúa là Ðấng họ tin theo.
Sau đó, các ngài sang Pisiđia, đi đến Pamphylia. Sau khi rao giảng lời Chúa tại Perghê, các ngài xuống Attilia, rồi từ đó xuống tàu trở về Antiôkia, nơi mà trước đây các ngài đã được trao phó cho ơn Chúa để làm công việc các ngài mới hoàn thành. Khi đến nơi, các ngài tụ họp giáo đoàn, thuật cho họ nghe những gì Thiên Chúa đã làm với các ngài và đã mở lòng cho nhiều dân ngoại nhận biết đức tin.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 8-9. 10-11. 12-13ab
Ðáp: Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa, con sẽ chúc tụng danh Chúa đến muôn đời (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. – Ðáp.
2) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài. – Ðáp.
3) Ðể con cái loài người nhận biết quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Ngài là nước vĩnh cửu muôn đời, chủ quyền Ngài tồn tại qua muôn thế hệ. – Ðáp.
Bài Ðọc II: Kh 21, 1-5a
“Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ ở mắt họ”.
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là Gioan đã thấy trời mới và đất mới. Vì trời cũ và đất cũ đã qua đi, và biển cũng không còn nữa. Và tôi là Gioan đã thấy thành thánh Giêrusalem mới, tự trời xuống, từ nơi Thiên Chúa: tề chỉnh như tân nương được trang điểm cho tân lang của mình. Và tôi nghe có tiếng lớn tự ngai vàng phán ra: “Ðây là Thiên Chúa ở với loài người, và chính Thiên Chúa sẽ ở với họ. Người sẽ lau khô mọi giọt lệ ở mắt họ. Sự chết chóc sẽ không còn nữa, cũng không còn than khóc, không còn kêu la, không còn đau khổ: bởi vì các việc cũ đã qua đi”. Và Ðấng ngự trên ngai vàng đã phán rằng: “Này đây, Ta đổi mới mọi sự”.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 13, 34
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con”. – Alleluia.
Phúc Âm: Ga 13, 31-33a. 34-35
“Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc, Chúa Giêsu liền phán: “Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển.
“Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa thôi. Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau. Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau”.
Ðó là lời Chúa.
Bài giảng hoặc chia sẻ chủ đề:
YÊU NHƯ CHÚA YÊU
✍️ Tu sĩ Giuse Đinh Ngọc Hiển, SVD
“Ngôn ngữ mà ai cũng có thể hiểu được chính là ngôn ngữ của tình yêu”. Đây là một câu nói nổi tiếng của thánh Giuse Freinademetz, nhà truyền giáo đầu tiên của Dòng Ngôi Lời tại đất nước Trung Hoa. Quả thật, cuộc đời của thánh Giuse Freinademetz gắn liền với sứ vụ truyền giáo của Hội Dòng tại đất nước Trung Hoa xa xôi. Chính cuộc sống thắm đượm tình yêu của ngài là dấu chứng của người môn đệ theo Đức Giêsu “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 35). Khi thánh nhân qua đời, một người Trung Hoa đã nói về sự ra đi của ngài như là sự ra đi của người cha, người mẹ của họ: “Tôi như đã mất cha mẹ rồi”. Ngài yêu người Trung Hoa như yêu chính người thân yêu ruột thịt và ngay cả khi ngài chết, ngài cũng muốn an táng giữa họ. Tình yêu thương của thánh Giuse Freinademetz dành cho người Trung Hoa là tình yêu mà Đức Giêsu muốn nhấn mạnh trong đoạn Tin Mừng hôm nay: “Yêu như Thầy đã yêu” (Ga 13,34). Tình yêu đó ngược lại với thứ tình yêu mà: yêu thương những người thương yêu mình; yêu thương những người quan tâm mình; yêu thương những người thân thích với mình, vì như Đức Giêsu đã nói: “Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ” (Lc 6, 32).
Chính Thiên Chúa, vì yêu thương nhân loại mà Ngài đã ban chính Con Một của mình cho thế gian. Người Con của Thiên Chúa lại vì tình yêu mà hạ mình, bằng lòng sống trong thế gian. Hơn nữa, Người Con ấy đã dùng chính cuộc đời 33 năm để sống, làm chứng và cuối cùng hy sinh chính mình trên thập giá để cứu chuộc nhân loại.
Trong bối cảnh Tin Mừng hôm nay, bữa tiệc chia tay của Thầy Giêsu với các môn đệ để Ngài bước vào cuộc khổ hình thập giá. Đức Giêsu dặn dò các môn đệ của mình và nhấn mạnh đến sứ mạng sống và làm chứng cho tình yêu. Chỉ có sống yêu thương nhau mới là dấu chỉ để người khác nhận ra Ngài đang hiện diện. Vậy yêu như thế nào để người khác nhận ra đó là thứ tình yêu mà Đức Giêsu nhắn nhủ chúng ta ngang qua trình thuật Lời Chúa hôm nay “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34).
Trước hết, đó là yêu với một tình yêu vô vị lợi. Câu chuyện nổi tiếng về người mẹ đã dùng máu của chính mình để cứu sống đứa con trong trận động đất năm 1995, xảy ra ở thành phố Kôbê, Nhật Bản. Trận động đất đã chôn vùi bà và đứa con trong đống gạch đổ nát. Vì tình yêu dành cho đứa con mà bà đã không nghĩ đến tính mạng của mình, chấp nhận dùng máu mình để nuôi sống đứa con trong khi chờ được giải cứu. Khi đối diện với cái chết, đối diện với những khó khăn, người ta dường như luôn tìm cách để chỉ lo cho bản thân của mình hơn là nghĩ đến người khác. Tình yêu mà con người ngày nay dành cho nhau chỉ là thứ tình yêu “lợi nhuận”; tình yêu “nhu cầu”. Nghĩa là phải tìm được cái lợi cho bản thân trước đã; phải đáp ứng được nhu cầu trước đã, lúc đó mới có tình yêu. Tình yêu vô vị lợi nơi Đức Giêsu thì hoàn toàn ngược lại, đó là quên mình để tìm hạnh phúc cho người mình yêu. Và đỉnh cao của tình yêu đó nơi Đức Giêsu là đón nhận cái chết nhục nhã trên thập giá để cứu nhân loại khỏi tội. Hình ảnh người mẹ trong câu chuyện trên đã dùng chính những giọt máu nuôi bản thân để cho đứa con của mình với hy vọng rằng, nhờ những giọt máu đó của bà, khi những người cứu hộ tìm đến, đứa con của bà vẫn còn được sống. Quả thật, chỉ khi đối diện với cái chết, thứ tình yêu vô vị lợi này mới lộ rõ được mức độ của nó. Yêu như Thầy Giêsu, một tình yêu không cần đáp trả, một tình yêu cao cả đến mức độ tột cùng là hy sinh chính mình không chỉ cho người mình yêu mà ngay cả đến kẻ thù của mình: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Thánh Maximilianô Maria Kolbe chết thay cho bạn tù của mình; hay như Mẹ Têrêsa Calcutta là một biểu tượng của tình yêu thương được cả thế giới xúc động và ngưỡng mộ, không phải vì Mẹ là một tài năng xuất chúng, mà đơn giản vì Mẹ là người giàu lòng trắc ẩn và một trái tim rộng mở yêu thương vô bờ bến…
Thứ đến, đó là tình yêu cảm thông, đón nhận. Đức Giêsu trong ba năm Ngài đi rao giảng về Nước Thiên Chúa, đó là một Nước Tình Yêu. Nước Tình Yêu đó không phân biệt là giàu, nghèo, tốt, xấu, giỏi hay không giỏi mà cần có tình yêu. Tình yêu đó không phải chỉ một sớm, một chiều; không phải chỉ dành cho riêng một ai nhưng cho tất cả mọi loài thụ tạo. Chính vì vậy, muốn là công dân của đất nước tình yêu thì dĩ nhiên phải biết yêu. Người ta thường chỉ mặn mà tình yêu lúc ban đầu, lúc mà mọi khuyết điểm bị che đi; lúc mà mọi tật xấu vẫn còn giấu kín. Thế nhưng, thời gian càng dài, khi mà mọi khuyết điểm, mọi tật xấu của đối phương được phơi bày thì dường như, tình yêu nhạt dần. Bởi khi yêu, chúng ta chỉ chọn những cái tốt đẹp nơi đối tượng để yêu mà quên yêu luôn cả những cái chưa tốt, cái bản chất như họ là. Người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang trong Tin Mừng theo thánh Gioan được Đức Giêsu giải thoát: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?” Người đàn bà đáp: “Thưa ông, không có ai cả.” Đức Giêsu nói: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!” (Ga 8, 10-11); ông Dakêu trong Tin Mừng theo thánh Luca được Đức Giêsu ghé thăm: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” … “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Ápraham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.” (Lc 19,5-10); thánh Matthêu tại bàn thu thuế được Đức Giêsu kêu gọi: “Đi ngang qua trạm thu thuế, Người thấy ông Lêvi là con ông Anphê, đang ngồi ở đó. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi!” Ông đứng dậy đi theo Người” (Mc 2,14). Như thế, tình yêu cảm thông là tình yêu đón nhận những khuyết điểm, những tội lỗi và những yếu đuối của người mình yêu để rồi cảm hóa họ, giúp họ nhận ra thứ tình yêu đích thực đến từ Thiên Chúa. Tình yêu cảm thông còn là đón nhận đối tượng mình yêu như họ là. Như cách mà Đức Giêsu đã đón nhận người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang; người thu thuế Lêvi đầy tội lỗi, bị loại trừ. Và đặc biệt, như cách mà Thiên Chúa đón nhận mỗi người chúng ta vào trong gia đình Giáo Hội của Ngài, vào trong mối tương quan mật thiết với Ngài. Dẫu rằng mỗi người chúng ta vẫn luôn mang trong mình đầy những yếu đuối, bất toàn và tội lỗi.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết yêu như Chúa yêu để nhờ đó, chúng con can đảm sống tình yêu vô vị lợi, biết cảm thông, chia sẻ và đón nhận mọi người như cách Chúa đón nhận và yêu thương mỗi người chúng con. Dù chúng con đầy những bất toàn và tội lỗi. Amen.
ÂN MẾN LỜI TRỐI CỦA ĐỨC GIÊSU
✍️ Lm. Giacôbê Trì Văn Pháp, SVD
Hôm nay, Chúa Nhật thứ Năm Mùa Phục Sinh, năm C, các bài đọc lời Chúa, cách riêng bài Tin Mừng không làm cho chúng ta tránh khỏi những thắc mắc: Tại sao Mùa Phục Sinh, Giáo Hội lại chọn bài Tin Mừng nói về lời trăn trối hay còn gọi là “những lời từ biệt” của Chúa Giê-su trước khi chịu khổ nạn? Đáng lý ra, bài Tin Mừng này nên được đọc trong Mùa Chay, đặc biệt hơn là trong những ngày của Tuần Thánh thì hợp lý hơn. Vậy thì, Giáo Hội chọn các bài đọc này trong ngày hôm nay nhắm đến mục đích gì? Hay nói cách khác, Giáo Hội muốn dạy chúng ta điều gì? Có điều bí ẩn gì nơi các bài đọc lời Chúa hôm nay? Trước nghi vấn đó, cần đọc lại các bản văn Lời Chúa, chúng ta sẽ khám phá ra những điều kỳ diệu mà Giáo Hội muốn giáo huấn chúng ta.
“Ngắm nhìn” bản văn Tin Mừng, đây là lời cuối cùng của Đức Giê-su dành cho các môn đệ của Người, nằm trong bối cảnh bữa Tiệc Ly, hay còn gọi là “bữa ăn cuối cùng của Đức Giê-su và các môn đệ”[1]. Vậy [thì] những lời cuối cùng đó là những lời gì?
- Giờ Đây, Con Người Được Tôn Vinh Và Thiên Chúa Cũng Được Tôn Vinh Nơi Người
“Khi Giu-đa đi rồi, Đức Giê-su nói: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người.” Xét về mốc thời gian: “khi Giu-đa đi rồi” và “giờ đây” là mốc thời gian khá đặc biệt, có liên hệ mật thiết trong câu nói của Đức Giê-su, [mà] theo các nhà chú giải Thánh Kinh, thì “khi Giu-đa đi rồi”, ngay lúc ấy, Đức Giê-su bước vào cuộc Thương Khó của Người. Và vì thế “giờ đây” “Con Người và Thiên Chúa” được tôn vinh có liện hệ đến cuộc Thương Khó của Đức Giê-su.[2]
Như chúng ta được biết, việc Đức Giê-su (Con Người) được tôn vinh đều nhắm đến Sự Chết và Sự Phục Sinh của Người, thế nhưng Đức Giê-su lại nói, “giờ đây, Con Người được tôn vinh…”. Điều đó cho thấy, Đức Giê-su nối kết “cuộc Thương Khó, Sự Chết và Sự Phục Sinh” của Người thành một thể duy nhất và diễn tả một kết cục là “được tôn vinh”.[3] Nếu tinh ý, thì Đức Giê-su đã tiên báo ba lần về điều này: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” (Lc 9,22; 9,44; 18,32-33; Mt 16,21; 17,22; 20,17-19; Mc 8,31; 9,30-32; 10,32-34), Ngài không nói riêng lẻ.
Suy nghĩ thông thường, câu nói trên không giống như một lời trối, để các môn đệ giữ và thi hành. Nhưng suy xét tường tận, chúng ta khám phá ra chân lý, khi Người nói về chính mình: Không thể Phục Sinh nếu không chịu Tử Nạn[4]. Để từ đó, Ngài nói đến sứ mạng mà các môn đệ phải trải qua trong hành trình rao giảng.
Đó chính là điều, [mà] Đức Giê-su muốn nhắn gửi đến các môn đệ của Người. Nói đúng hơn, Người nhắc cho các môn đệ “nền tảng cốt lõi” để làm môn đệ của Người. Các ngài cũng sẽ giống như Thầy của mình, phải chấp nhận gian khổ, phải đi con đường hẹp, con đường chông gai và chết đi, mới đạt được hạnh phúc đích thật là sự sống đời đời. “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7,13-14; x. Lc 13,24).
Thế nên, để có hạnh phúc mà không qua đau khổ, đều là những cám dỗ cho tất cả mọi người chúng ta, vì những ước muốn đó sẽ dẫn đến sự chết. Trái lại, khi chúng ta chấp nhận đau khổ, chấp nhận đi con đường hẹp, thì đó là cách mà chúng ta làm vinh danh Chúa nơi thân xác chúng ta. Thánh Phao-lô và Ba-na-ba khuyên nhủ các tín hữu ở Lýt-ra, I-cô-ni-ô và An-ti-ô-khi-a cũng như tất cả mọi người chúng ta: “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới vào được Nước Thiên Chúa” (Cv 14,22).
Đây là “nền tảng cốt lõi” thứ nhất trong lời trối của Đức Giê-su, mà Ngài để lại cho các môn đệ của Người cũng như tất cả mọi người nghe.
- Điều Răn Mới
“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Giới luật Yêu thương đã được Thiên Chúa đóng ấn tại núi Si-nai trong “Thập Điều”, dạy toàn dân Ít-ra-en “hãy yêu thương người thân cận như chính mình”. Đó là giao ước mà Thiên Chúa ký kết với dân Người, ta gọi là Giao Ước Cũ. Giờ đây, Chúa Giê-su cũng dạy yêu thương, nhưng tại sao Chúa Giê-su lại gọi là Điều Răn Mới? Có sự khác biệt gì?
Phải chăng khi nói Điều Răn Cũ và Điều Răn Mới là vì liên quan đến Giao Ước Cũ và Giao Ước Mới? Thật có lý khi chúng ta suy về khía cạnh này. Điều Răn Cũ được Thiên Chúa khắc ghi trên bia đá qua Mô-sê trên núi Si-nai; còn Điều Răn Mới được Đức Giê-su khắc ghi bằng máu trong tâm khảm của con người khi Người hiến tế trên thập giá. Đây chính là sự khác biệt thứ nhất khi chúng ta suy gẫm về khía cạnh này của Điều Răn Mới.
Điểm khác, [mà] chúng ta cần suy: đó là nền tảng tình yêu. Luật cũ, tình yêu đặt trên nền tảng chính bản thân mình. “Hãy yêu người thân cận như chính mình.” Luật mới, tình yêu đặt trên nền tảng tình yêu của Đức Giê-su. “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Đây chính là sự khác biệt thứ hai mà cũng là khác biệt lớn, vì nó đặt trên nền tảng mới “như Thầy đã yêu”. Vậy Thầy đã yêu như thế nào?
Một tình yêu luôn đi bước trước – sáng kiến của Tình Yêu: Tình yêu luật cũ có vẻ thụ động. Ai làm cho tôi cái gì, thì tôi đáp trả như vậy. Tình yêu ấy chưa cho thấy một sự rộng mở, khi nói về những người thân cận. Trái lại tình yêu luật mới nơi Đức Giê-su không thụ động, mà luôn có sự thay đổi, luôn chủ động đi bước trước. Một tình yêu không phải đi kiếm người thân cận, mà tôi phải tỏ ra người thân cận với người anh em mình. Điều này chúng ta thấy rõ qua dụ ngôn người Sa-ma-ri-ta-nô nhân hậu. Sự sáng kiến ấy không dừng lại, mà còn tìm mọi cách để làm hài lòng người mình yêu, qua sự chăm sóc vượt lên trên tất cả tình bằng hữu (x. Lc 10,29-37).
Sự sáng kiến còn thể hiện qua một tình yêu khiêm tốn – phục vụ. Biết bao nhiêu nhà lãnh đạo cũng biết yêu thương thuộc hạ. Họ cũng biết quan tâm, biết lo lắng cho thuộc hạ của mình. Thế nhưng nơi Đức Giê-su, một nhà lãnh đạo khác thường, sẵn sàng cúi xuống rửa chân cho đồ đệ của mình (x. Ga 13,1-20).
Một tình yêu không muốn rời bỏ người mình yêu, mà luôn muốn ở cùng. Hành động tự hiến để thiết lập Bí tích Thánh Thể là đỉnh cao của Tình Yêu, thể hiện tính độc đáo, và duy nhất. Chính điều tuyệt diệu này, đã làm phát sinh sự sống, và sự sống ấy tồn tại mãi và lan rộng. Tuy tồn tại mãi và lan rộng, nhưng lại diễn tả một thực tại sống động ngay lúc này và duy nhất. Có thể nói rằng, “không gian và thời gian” dường như đã nhường chỗ cho điều kỳ diệu này, tuy được thực hiện trong một không gian và thời gian cụ thể.
Hành động tự hiến, chính là nền tảng của Tình Yêu, [mà] Đức Giê-su muốn trối lại cho các môn đệ của mình, để các ông dựa vào đó như là “khuôn vàng thước ngọc” để thi hành sứ vụ theo lệnh truyền của Đức Giê-su.
- Một Chút Liên Tưởng
“Giờ đây, Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người” và “Điều Răn Mới, tuy hai điểm nhưng chỉ là một. Điểm thứ nhất: Cuộc Thương Khó – Sự Chết – Phục Sinh của Đức Giê-su, đó chính là hành động của Giao Ước Mới là điểm thứ hai, mà trọng tâm là hành động tự hiến trên thập giá. Và để thực hiện cả hai điều này thì cốt lõi phải có, đó là Tình Yêu. Đây là bài học thật quý, [mà] Đức Giê-su đã trối lại cho các môn đệ của mình, cũng như tất cả mọi người chúng ta.
Kết luận
Trở lại với luận đề ban đầu và từ những điểm phân tích ở trên, chúng ta nhận thấy rằng, thật có lý khi Giáo Hội chọn những bài đọc Lời Chúa, mà chúng ta xét rằng, nên đưa vào Chúa Nhật Mùa Chay hay Tuần Thánh hơn là đừa vào Chúa Nhật thứ Năm Phục Sinh, năm C hôm nay. Bởi vì, đây như là những lời trối của Đức Giê-su Phục Sinh dành cho các môn đệ. Lời trối ấy thật ý nghĩa, cho tất cả mọi người chúng ta là những môn đệ của Đức Giê-su ra đi và thi hành lệnh truyền: đó là đón nhận những thách đố trong cuộc sống để làm vinh danh Chúa, đồng thời cũng làm chứng cho Tình Yêu của Đấng Tự Hiến vì chúng ta trong lòng xã hội.
Điểm khác, [mà] chúng ta thấy càng có lý hơn khi thế giới đang thiếu lời trối này. Trong bài tin Mừng, Giu-đa đã không nhận được lời trối đó. Đây là điều mà chúng ra cần phải suy trong đời sống của mình. Phải chăng, có nhiều nơi “lời trối của Thầy Giê-su còn dang dở”? Và phải chăng, nơi tôi, “lời trối của Thầy Giê-su cũng còn dang dở”?
_________
[1] Kinh Thánh, 2011, Nhóm CGKPV chuyển ngữ, nxb: Tôn giáo, nxb: 2019, tr. 2381
[2] Xc. Sđd., tr. 2383.
[3] Xc. Sđd., tr. 2383.
[4] Tử nạn, theo từ điển tiếng Việt: chết vì nạn nước hay tại nạn; nhưng ở đây tạm hiểu “Tử Nạn”: là nói đến Cuộc Thương Khó và Sự Chết của Đức Giê-su.
DẤU CHỈ NGƯỜI MÔN ĐỆ
✍️ Tu sĩ Giuse Nguyễn Văn Linh, SVD
Người ta thường nói: “Áo dòng không làm nên thầy tu. Sáng ngời nhân đức, đường tu mới bền”. Tu phục tuy cần thiết, nhưng nó không phải là thứ quyết định. Người ta nhận ra thầy tu không hệ tại ở chiếc áo dòng, mà là bởi đức độ của người tu sĩ. Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng dạy các môn sinh cách thức giúp người khác nhận biết họ là môn đệ đích thực của Ngài là: “Anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34).
Điều Đức Giêsu dạy các môn đệ xem ra rất quen thuộc vì các tôn giáo và tất cả những ai có lương tri cũng dạy về bác ái yêu thương. Tuy nhiên, giới răn yêu thương của Đức Giêsu lại rất khác biệt so với phần còn lại nơi các tôn giáo và các hệ tư tưởng khác. Yêu thương mà Đức Giêsu muốn các môn đệ của Ngài thực thi đó là yêu như Ngài đã yêu, một tình yêu vô vị lợi, không hề so đo toan tính. Yêu như Thầy đã yêu chính là dám hy sinh tất cả vì người mình yêu, yêu đến mức dám chết vì người mình yêu mà không đòi hỏi được đền đáp. Dẫu biết rằng người mình yêu sẽ phản bội bằng việc chối bỏ, trao nộp cho kẻ thù, bỏ mình cô đơn, dẫu biết rằng sẽ bị những người mình yêu phụ bạc, Đức Giêsu vẫn không chọn lối hành xử của người đời “thà ta phụ người hơn để người phụ ta,” mà Ngài vẫn sẵn sàng tha thứ và đón nhận. Một Giuđa gian dối tìm cách nộp Thầy, nhưng Thầy không nỡ đuổi sớm để tránh một mối họa. Thầy Giêsu vẫn ân cần quỳ xuống để rửa chân cho kẻ phản đồ và còn tìm mọi cách để nhắc nhở, cảnh tỉnh, với mong ước trò sẽ thay đổi. Cũng vậy, một Phêrô năm lần bảy lượt thề thốt nhưng rồi chối Thầy đến ba lần mà vẫn được Thầy tin yêu đặt làm tông đồ trưởng. Thêm nữa, một nhóm môn đệ thân tín được Thầy ra sức dạy dỗ, cùng Thầy chia ngọt sẻ bùi, nhưng rồi lại bỏ trốn khi Thầy gặp nạn, thế mà Ngài vẫn hết mực yêu thương… Tình yêu lạ lùng đến mức khi thoi thóp những lời sau cùng thì vẫn là những lời tha thứ: “Xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Có lẽ Đức Giêsu là người đầu tiên dám lấy tình yêu đáp lại sự thù hận và phản bội, và Ngài mời gọi tất cả những ai muốn làm môn đệ của Ngài đều phải dùng tình yêu để chinh phục người khác. Lời nhắn nhủ của vị tôn sư trước lúc ly biệt “anh em hãy yêu thương nhau” nghe dường như đơn giản, nhưng không dễ để thực hiện đúng theo cách của Thầy.
Người ta sẽ nhận biết Thầy qua đời sống của người môn đệ. Lịch sử Giáo Hội đã có nhiều chứng nhân thực thi tình yêu thương theo cách của Thầy Chí Thánh. Trong những tấm gương chứng nhân ấy phải kể đến những vị tiêu biểu như: Thánh linh mục Maximilianô Kolbê (1894-1941), người dám chết thay cho người bạn tù. Thánh Têrêsa thành Calcutta (1910-1997) suốt đời dấn thân phục vụ những người nghèo khổ bất hạnh. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (1920-2005) xin tha cho Mehmet Ali Agca là kẻ đã bắn ngài. Đời sống và những nghĩa cử cao đẹp của các chứng nhân này đã minh chứng rằng họ là môn đệ đích thực của Thầy Giêsu. Người ta thường nói “trông quả thì biết cây”, nhìn thấy đời sống đạo hạnh của người môn đệ nên nhiều người đã tin vào vị tôn sư Giêsu. Những vị thánh này đã dùng cuộc đời của mình để khắc họa một cách sống động về dung mạo khả ái của Đức Giêsu. Từ đó, các ngài đã giúp nhiều người đón nhận đức tin.
Nhìn vào Giáo Hội hôm nay, không ít người thất vọng ngao ngán vì bức tranh màu tối dường như đang lấn át bởi những bê bối về tội lạm dụng tình dục nơi một số tu sĩ và giáo sĩ. Đó đây vẫn còn những cãi cọ tranh giành quyền lực và ảnh hưởng nơi các giáo phận và giáo xứ. Nhiều gia đình Công Giáo cũng đổ vỡ, li dị hoặc thiếu chung thủy trong đời sống hôn nhân. Mối liên hệ mật thiết giữa cha mẹ với con cái cũng như giữa anh chị em với nhau có lúc bị phá vỡ chỉ vì ích kỷ lo bảo vệ quyền lợi của mình mà không thèm quan tâm đến người khác… Thiếu gương mẫu trong lối sống của người Kitô hữu đã ngăn cản người ta tìm về với Chúa Kitô. Người ta không thấy bóng dáng của Chúa nơi những người được xem là môn đệ của Ngài, thậm chí họ còn ác cảm và xa Chúa vì lối sống bê tha của một số tín hữu. Hơn lúc nào hết, Giáo Hội đang rất cần những môn đệ đích thực dám sống như Thầy đã sống, yêu như Thầy đã yêu để “đánh thức thế giới”[1]. Người ta nhận ra môn đệ của Chúa không phải vì những lễ lạc rước xách hoành tráng hay nơi những công trình xây dựng nguy nga, nhưng là sự yêu thương hy sinh dấn thân phục vụ. Đức ái với mọi người chung quanh chính là men là muối và ánh sáng đích thực để biến đổi thế giới nguội lạnh và vô cảm này.
Khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được trở thành con cái và là môn đệ của Chúa. Chúng ta có trách nhiệm giới thiệu Chúa cho người khác bằng nhiều cách thế, nhất là qua lối sống đượm tình bác ái. Tuy nhiên, đời sống của chúng ta nhiều lúc trở nên phản chứng bởi những chia rẽ, bất hòa, bất thuận, khiến người khác không nhận ra Chúa. Chúng ta xin Chúa thứ tha và tiếp tục ban ơn giúp chúng ta biết biến đổi con người của mình để trở thành môn đệ đích thực của Chúa, sẵn sàng dấn thân mà không sợ thiệt thân. Nhờ đó, chúng ta có thể mang niềm vui, tình thương và bình an của Chúa đến với những nơi mà chúng ta hiện diện.
[1] Xc. ĐTC Phanxicô, Tông thư gửi tất cả các người Thánh hiến dịp Năm đời sống Thánh hiến, số 2.