Nội dung:
CHƯƠNG I: LỊCH SỬ MÙA THƯỜNG NIÊN
CHƯƠNG II: MẦU NHIỆM CỦA MÙA THƯỜNG NIÊN
CHƯƠNG III: THỰC HÀNH MÙA THƯỜNG NIÊN
Lm. Antôn Nguyễn Phi Tiến, SVD trích dịch từ: Abbot Guéranger, O.S.B., “The Liturgical Year – Paschal Time”, Book I, Volume 10, (bản dịch tiếng Anh của Domlaurence Shepherd, O.S.B.), St. Bonaventure Publications 2000, tr. 1 – 8. |
CHƯƠNG I: LỊCH SỬ MÙA THƯỜNG NIÊN
Đại Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống và Tuần Bát Nhật Phục Sinh đã khép lại và diễn tiến của Năm Phụng Vụ dẫn chúng ta bước vào một giai đoạn mới, một giai đoạn hoàn toàn khác biệt với những giai đoạn mà chúng ta đã trải qua trước đó. Ngay từ khởi đầu Mùa Vọng là thời gian khai mở của Đại Lễ Giáng Sinh cho đến ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta đã được chứng kiến toàn bộ chuỗi mầu nhiệm cứu độ; tất cả đã được mạc khải cho chúng ta. Diễn tiến của các mùa phụng vụ và các đại lễ đã dệt nên một bức tranh toàn cảnh tuyệt vời về chương trình cứu độ của Thiên Chúa, lôi cuốn tất cả đời sống của chúng ta, mà đỉnh cao là mầu nhiệm Vượt Qua mà chúng ta vừa cử hành, là sự viên mãn của toàn thể mầu nhiệm cứu độ. Thế nhưng, chúng ta mới chỉ đi qua một nửa chặng đường của Năm Phụng Vụ. Điều này không có nghĩa là giai đoạn còn lại thiếu vắng những mầu nhiệm đặc biệt. Không phải thế, thay vì hướng chúng ta vào một kế hoạch duy nhất đang không ngừng tiến tới sự thành toàn, thì Phụng Vụ Thánh lại trình bày cho chúng ta một chuỗi những biến cố đa dạng. Có những biến cố rạng rỡ vinh quang, có những biến cố thấm đượm nét dịu dàng tuyệt mỹ, nhưng mỗi biến cố đều mang một sắc thái đặc biệt của nó cho sự phát triển các tín điều đức tin hoặc cho việc thăng tiến đời sống Kitô hữu. Tuy nhiên, chu kỳ Năm Phụng Vụ này cũng sẽ kết thúc và qua đi, một chu kỳ Năm Phụng Vụ mới lại tiếp nối, Giáo Hội lại tiếp tục mang đến cho chúng ta những mầu nhiệm thánh thiêng ấy và tuôn đổ dồi dào muôn vàn ân sủng trên Nhiệm Thể của Chúa Kitô chính là Giáo Hội.
Giai đoạn sau Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống của Năm Phụng Vụ kéo dài trên dưới sáu tháng tùy theo Lễ Phục Sinh được cử hành sớm hay muộn, nhưng vẫn luôn mang đặc tính như hiện tại. Dù giai đoạn này chỉ bao gồm các lễ trọng và lễ kính riêng lẻ, nhưng ảnh hưởng của chúng trong chu kỳ phụng vụ vẫn thể hiện một cách rõ ràng. Giai đoạn này có thể kéo dài tới 28 tuần hoặc ngắn nhất là 23 tuần. Sự thay đổi này không chỉ tùy thuộc vào Lễ Phục Sinh, vốn có thể rơi vào bất kỳ ngày nào từ ngày 22 tháng Ba đến ngày 25 tháng Tư, mà còn tùy thuộc vào ngày Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, dấu mốc khởi đầu Năm Phụng Vụ mới và luôn được ấn định vào Chúa Nhật gần nhất với ngày đầu tháng Mười Hai.
Trong Phụng Vụ Rôma, các Chúa Nhật trong chu kỳ này được gọi là “Các Chúa Nhật sau Lễ Hiện Xuống.” Như chúng ta sẽ trình bày trong chương tiếp theo, danh xưng này là thích hợp nhất có thể được sử dụng và đã được tìm thấy trong các Sách Bí Tích và sách đối ca cổ xưa nhất. Tuy nhiên, ngay cả trong những Giáo Hội theo nghi thức Rôma, danh xưng này cũng không được áp dụng một cách phổ biến. Dẫu vậy, theo dòng thời gian, danh xưng này dần trở thành cách gọi phổ biến nhất. Để nhắc đến một số danh xưng cổ xưa, trong “Comes của Alcuin”[1] – một tài liệu có từ thế kỷ VIII, chúng ta thấy phần đầu tiên của các Chúa Nhật này được gọi là “các Chúa Nhật sau Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống”; phần thứ hai được gọi là “các tuần sau lễ kính các thánh Tông Đồ” (post natale Apostolorum); phần thứ ba được gọi là “các tuần sau Lễ kính thánh Lôrensô” (post Sancti Laurentii); phần thứ tư được gọi là “các tuần của tháng thứ bảy” (tức là tháng Chín); và sau cùng, phần thứ năm được gọi là “các tuần sau lễ kính Tổng Lãnh Thiên Thần Micae” (post Sancti Angeli), và kéo dài cho đến Mùa Vọng. Ngay cả vào thế kỷ XVI, nhiều sách lễ của các Giáo Hội Tây Phương vẫn còn giữ cách phân chia các giai đoạn khác nhau trong Mùa sau Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Tuy nhiên, một số danh xưng có sự thay đổi tùy theo các thánh được tôn kính đặc biệt trong từng giáo phận, vì những ngày lễ kính các ngài được dùng làm mốc thời gian để đánh dấu các tuần trong giai đoạn này của Năm Phụng Vụ. Sách Lễ Rôma được ấn hành dưới triều của thánh Giáo Hoàng Piô V đã dần dần được chấp nhận trong tất cả các Giáo Hội Latinh. Sách này đã khôi phục danh xưng cổ xưa cho mùa phụng vụ sau Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Suống, vì vậy danh xưng duy nhất được sử dụng trong Giáo Hội của chúng ta hiện nay là “Mùa Sau Lễ Hiện Xuống” (post Pentecosten).
CHƯƠNG II: MẦU NHIỆM CỦA MÙA THƯỜNG NIÊN
Để chúng ta có thể hiểu một cách trọn vẹn ý nghĩa và ảnh hưởng của mùa Thường Niên trong phụng vụ mà chúng ta vừa bước vào, điều cần thiết là chúng ta phải nắm bắt được toàn bộ chuỗi mầu nhiệm mà Giáo Hội thánh thiện đã cử hành trước sự hiện diện và tham dự của dân Chúa. Chúng ta đã chứng kiến các nghi lễ của Giáo Hội và đã cùng hiệp thông với Giáo Hội trong các cử hành ấy. Việc cử hành các mầu nhiệm ấy không phải là một nghi thức mang tính hình thức được thực hiện chỉ để chiêm ngưỡng. Mỗi mầu nhiệm đều mang đến một ân sủng đặc biệt, làm phát sinh trong tâm hồn chúng ta thực tại thiêng liêng mà các nghi lễ phụng vụ diễn tả. Vào lễ Giáng Sinh, Đức Kitô đã sinh ra giữa chúng ta; trong Tuần Thương Khó, Ngài đã thông ban cho chúng ta những đau khổ và hy lễ đền tội của Ngài; vào lễ Phục Sinh, Ngài trao ban cho chúng ta vinh quang và sự sống vinh hiển của Ngài; trong ngày Lễ Thăng Thiên, Ngài đã kéo chúng ta lên cùng Ngài, thậm chí đến tận chóp đỉnh của vinh quang Nước Trời. Tóm lại, như lời thánh Tông Đồ đã diễn tả về tất cả những điều này: “Đức Kitô đã được hình thành trong chúng ta”.[2]
Tuy nhiên, để hình ảnh Đức Kitô được vững chắc và trường tồn trong chúng ta, cần phải có Chúa Thánh Thần ngự đến. Chính Ngài sẽ gia tăng ánh sáng trong tâm hồn chúng ta và thắp lên ngọn lửa thiêng liêng, một ngọn lửa không bao giờ tàn lụi. Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ đã từ trời ngự xuống; Ngài đã tự hiến chính mình cho chúng ta; Ngài muốn cư ngụ giữa chúng ta và hoàn toàn đảm bảo đời sống tái sinh của chúng ta trong vòng tay quan phòng của Ngài. Phụng vụ của Mùa Sau Lễ Hiện Xuống biểu trưng và diễn tả đời sống mới này – một đời sống được hoạ theo mẫu gương của Đức Kitô và dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Ở đây, có hai thực tại để chúng ta suy ngẫm: Giáo Hội và tâm hồn Kitô hữu. Trước hết, Giáo Hội thánh thiện là hiền thê của Đức Kitô, được đổ tràn Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ thần linh, Đấng đã tuôn đổ chính Ngài trên Giáo Hội. Từ giây phút ấy, Chúa Thánh Thần trở thành nguyên lý sinh động của Giáo Hội. Nhờ quyền năng của Người, Giáo Hội tiếp tục tiến bước trong cuộc lữ hành dương thế, và sẽ còn tiếp tục như thế cho đến ngày Đức Lang Quân từ trời lại đến trong vinh quang. Giáo Hội mang trong mình những ân ban của chân lý và thánh thiện. Được Thiên Chúa ban cho đặc ân bất khả ngộ trong đức tin và quyền giảng dạy và hướng dẫn; Giáo Hội không ngừng nuôi dưỡng đoàn chiên của Đức Kitô. Trên hành trình trần thế, Giáo Hội có lúc được tự do, có lúc gặp thử thách, nhưng vẫn luôn trung thành với sứ mạng mà Chúa đã trao phó. Đức Lang Quân của Thiên Chúa luôn ở cùng Giáo Hội qua ân sủng và hiệu về những lời hứa của Ngài cho đến tận thế. Giáo Hội được gìn giữ trong tất cả những ân huệ mà Đức Kitô đã trao ban cho Giáo Hội. Và Chúa Thánh Thần không ngừng cư ngụ với Giáo Hội và trong Giáo Hội đến muôn đời. Tất cả những điều này được diễn tả qua giai đoạn hiện tại của Năm Phụng Vụ. Đây là thời kỳ mà chúng ta không còn chứng kiến những biến cố vĩ đại đã được chuẩn bị và hoàn tất công trình cứu độ của Thiên Chúa. Tuy nhiên, đây lại là mùa mà Giáo Hội thánh thiện gặt hái những hoa trái của sự thánh thiện và giáo huấn – những hoa trái đã được phát sinh từ các mầu nhiệm cao cả ấy và sẽ tiếp tục trổ sinh dồi dào qua dòng thời gian. Chính trong mùa phụng vụ này và vào thời điểm thích hợp, chúng ta sẽ có được sự chuẩn bị để hoàn tất những biến cố sau cùng đó – những biến cố sẽ biến đổi cuộc lữ hành dương thế của Mẹ Giáo Hội thành vinh quang khải hoàn trên thiên quốc. Như vậy, xét về phương diện Giáo Hội, đây chính là ý nghĩa của giai đoạn phụng vụ mà chúng ta đang bước vào.
Đối với người tín hữu, tâm hồn và đời sống của họ là một bản tóm lược của chính đời sống Giáo Hội, hành trình thiêng liêng của người tín hữu đã được mở ra sau thời gian của Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống cần phải hòa nhịp với bước tiến chung của Mẹ Giáo Hội. Tâm hồn người tín hữu phải sống và hành động theo gương Đức Giêsu, Đấng đã kết hợp chính Ngài với họ qua các mầu nhiệm mà tâm hồn và đời sống của người tín hữu ấy đã trải qua; đồng thời, tâm hồn người tín hữu cũng phải để cho Chúa Thánh Thần, Đấng mà họ đã đón nhận, hướng dẫn và điều khiển. Những biến cố cao cả đặc biệt của giai đoạn thứ hai này trong Năm Phụng Vụ sẽ mang lại cho tâm hồn người tín hữu một sự lớn mạnh về ánh sáng và sự sống. Người tín hữu sẽ hiệp nhất trong ánh sáng này, dù được chiếu tỏa theo nhiều hướng khác nhau, nhưng tất cả đều phát xuất từ một tâm điểm duy nhất. Và khi tiến bước từ ánh sáng này đến ánh sáng khác,[3] người tín hữu vẫn luôn khao khát được hiệp nhất nên một với Đấng mà mình đã nhận biết cách tỏ tường; Đấng mà chính cái chết của Ngài sẽ mở lối cho tâm hồn người tín hữu được chiếm hữu trọn vẹn như gia nghiệp của mình. Tuy nhiên, nếu Thiên Chúa chưa muốn mời gọi người tín hữu trở về với Ngài, thì người tín hữu ấy sẽ bước vào một Năm Phụng Vụ mới và sống lại những mầu nhiệm mà chính họ đã từng hưởng nếm trong giai đoạn đầu của các chu kỳ phụng vụ trước. Sau đó, người tín hữu sẽ lại một lần nữa nhìn thấy chính mình được dẫn dắt trong mùa phụng vụ dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, cho đến khi Thiên Chúa mời gọi họ rời khỏi thế gian này vào ngày giờ mà Ngài đã ấn định từ muôn thuở.
Như vậy, trong khoảng thời gian từ khi Chúa Thánh Thần ngự xuống cho đến ngày hoàn tất, giữa Giáo Hội và tâm hồn người tín hữu có một điểm khác biệt, đó là Giáo Hội chỉ trải qua hành trình này một lần duy nhất, trong khi tâm hồn người Kitô hữu thì lặp lại hành trình ấy mỗi năm. Ngoài điểm khác biệt ấy, sự tương đồng giữa Giáo Hội và tâm hồn người tín hữu là trọn vẹn. Do đó, bổn phận của chúng ta là luôn tạ ơn Thiên Chúa, vì qua Phụng Vụ Thánh, Ngài đã quan phòng trên sự yếu đuối của chúng ta, không ngừng canh tân trong chúng ta nhờ sự trợ lực thiêng liêng, để giúp chúng ta đạt tới cùng đích vinh quang mà Ngài đã hứa ban.
Hội Thánh đã sắp xếp trình tự đọc các Sách Thánh trong khoảng thời gian hiện tại là để diễn tả công trình Thiên Chúa đã thực hiện, cả trong chính Giáo Hội và cả trong tâm hồn Kitô hữu. Trong khoảng thời gian từ Lễ Hiện Xuống đến đầu tháng Tám, Giáo Hội cho chúng ta đọc bốn cuốn Sách của Các Vua. Những sách này là một bản tóm lược mang tính tiên tri về lịch sử của Giáo Hội. Các sách này thuật lại cách vương quốc Israel được thiết lập bởi vua Đavít, người là hình ảnh tiên trưng của Đức Kitô, Đấng chiến thắng kẻ thù của Người, và bởi vua Salômôn, vị quân vương hòa bình, người đã xây dựng Đền Thờ để tôn vinh Đức Chúa. Trái qua nhiều thế kỷ trong lịch sử, có một cuộc đấu tranh liên lỉ giữa thiện và ác được ghi lại trong những cuốn sách này. Có những vị vua vĩ đại và thánh thiện như Asa, Êdêkia và Giôsia; nhưng cũng có những vị vua gian ác như Manassê. Một cuộc ly giáo bùng phát tại Samaria; các dân tộc ngoại giáo liên minh chống lại Thành Thánh của Thiên Chúa. Dân thánh không ngừng ngoảnh mặt làm ngơ trước lời các ngôn sứ, đã tự hiến mình cho việc thờ ngẫu tượng và chạy theo những thói hư tật xấu của dân ngoại, cho đến khi công lý của Thiên Chúa giáng xuống phá hủy cả Đền Thờ lẫn thành đô của Giêrusalem bất trung. Đây là hình ảnh báo trước về sự hủy diệt của thế gian vào thời sau hết, khi đức tin trở nên quá hiếm hoi, đến nỗi khi Con Người tái quang lâm lần thứ hai liệu còn tìm thấy một dấu vết Đức tin nào còn sót lại nữa chăng?
Trong tháng Tám, Giáo Hội cho chúng ta đọc các Sách Khôn Ngoan, sở dĩ được gọi là Sách Khôn Ngoan vì chúng chứa đựng những giáo huấn của Sự Khôn Ngoan thần linh. Sự Khôn Ngoan này chính là Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng được tỏ lộ cho nhân loại qua giáo huấn của Giáo Hội, và nhờ sự trợ giúp thường hằng của Chúa Thánh Thần luôn hiện diện trong Giáo Hội, do đó Giáo Hội không thể sai lầm trong chân lý.
Chân lý siêu nhiên sinh ra sự thánh thiện, và sự thánh thiện không thể tồn tại hay sinh hoa kết quả nếu không có chân lý. Để diễn tả sự kết hợp mật thiết giữa hai thực tại này, trong tháng Chín Giáo Hội cho chúng ta đọc các sách thánh sử “hagiographic”, bao gồm sách Tôbia, Giuđitha, Ét-te và Gióp. Những cuốn sách này cho thấy Sự Khôn Ngoan được thể hiện qua hành động.
Vào thời sau hết, Giáo Hội sẽ phải trải qua những cuộc chiến khốc liệt chưa từng có. Để nhắc nhở chúng ta luôn tỉnh thức, trong tháng Mười, Giáo Hội cho đọc các sách Macabê. Những cuốn sách này thuật lại tinh thần anh dũng của những người đã kiên trung bảo vệ Luật Thiên Chúa và sẵn sàng hiến dâng mạng sống mình cách vinh quang. Cũng thế, trong thời sau hết, khi quyền lực sẽ được “ban cho con thú để giao chiến với các thánh và chiến thắng họ.”[4]
Tháng Mười Một, Giáo Hội cho chúng ta đọc các sách Ngôn Sứ, trong đó loan báo các phán quyết của Thiên Chúa về thế gian mà Ngài buộc phải trừng phạt bằng sự hủy diệt. Trước hết, chúng ta nghe những lời cảnh báo đầy uy nghiêm của ngôn sứ Êdêkien; rồi đến Đanien, người đã được thị kiến về các đế quốc nối tiếp nhau cho đến tận cùng thời gian; và cuối cùng là các Tiểu Ngôn Sứ, những vị mà phần lớn tiên báo các hình phạt của Thiên Chúa, tuy nhiên, vị ngôn sứ sau cùng cũng đồng thời loan báo sự xuất hiện gần kề của Con Thiên Chúa.
Đó chính là mầu nhiệm của giai đoạn này trong chu kỳ phụng vụ, được gọi là Mùa Thường Niên sau Lễ Hiện Xuống. Trong thời gian này, Giáo Hội sử dụng phẩm phục màu xanh, biểu trưng cho niềm hy vọng của Hiền Thê, vì nàng biết rằng chính Phu Quân của mình đã trao phó nàng cho Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ gìn giữ và hướng dẫn nàng an toàn cho đến khi hoàn tất cuộc lữ hành trần thế. Thánh Gioan đã tóm lược tất cả điều này bằng một câu nói ngắn gọn trong sách Khải Huyền: “Thần Khí và Tân Nương nói: ‘Xin Ngài hãy đến!’”[5]
CHƯƠNG III: THỰC HÀNH MÙA THƯỜNG NIÊN
Mục đích mà Giáo Hội nhắm đến qua Năm Phụng Vụ chính là dẫn dắt tâm hồn Kitô hữu đến sự kết hợp mật thiết với Đức Kitô, nhờ Chúa Thánh Thần. Đây cũng chính là thánh ý của Thiên Chúa khi trao ban Con Một của Người cho chúng ta, để làm Đấng Trung Gian, Thầy dạy và Đấng Cứu Chuộc chúng ta, cũng như khi Người sai Chúa Thánh Thần ngự đến và cư ngụ giữa chúng ta. Tất cả các nghi thức và lời nguyện mà chúng ta đã tìm hiểu cho đến nay đều hướng đến mục đích này. Chúng không chỉ đơn thuần là việc tưởng niệm các mầu nhiệm mà lòng nhân từ Thiên Chúa đã thực hiện để cứu độ chúng ta, nhưng còn mang đến những ân sủng tương ứng với từng mầu nhiệm ấy. Nhờ đó, chúng ta có thể đạt tới, như lời thánh Tông Đồ đã nói, “tầm vóc viên mãn của Đức Kitô.”[6]
Như chúng ta đã giải thích ở những phần trước, việc chúng ta thông phần vào các mầu nhiệm của Đức Kitô được cử hành trong Năm Phụng Vụ sẽ giúp Kitô hữu đạt tới điều mà thần học huyền nhiệm gọi là đời sống chiếu sáng (vita illuminativa). Trong giai đoạn này, linh hồn ngày càng được thấm nhuần ánh sáng của Ngôi Lời Nhập Thể, Đấng mà qua gương mẫu và giáo huấn của Ngài không ngừng đổi mới mọi khả năng thiêng liêng của linh hồn và ban cho linh hồn thói quen nhìn mọi sự dưới cái nhìn của Thiên Chúa. Đây chính là sự chuẩn bị giúp linh hồn hướng đến sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, không chỉ theo một cách thức bất toàn hay thất thường, mà còn theo một cách bền vững và sâu xa, được gọi là đời sống kết hợp (vita unitiva). Việc hình thành đời sống này là công trình đặc biệt của Chúa Thánh Thần, Đấng đã được sai đến thế gian để gìn giữ mỗi linh hồn trong sự kết hiệp với Đức Kitô và kiện toàn tình yêu, nhờ đó, thụ tạo được kết hợp trọn vẹn với Đấng Tạo Hóa của mình.
Trong tình trạng đời sống hiệp nhất thiêng liêng này, linh hồn được nếm trải và thẩm thấu vào chính mình tất cả những lương thực thiêng liêng phong phú và bổ dưỡng mà Giáo Hội quảng đại trao ban trong suốt Thời Gian sau Lễ Hiện Xuống. Các mầu nhiệm của Chúa Ba Ngôi và Bí tích Cực Thánh, lòng thương xót và quyền năng của Thánh Tâm Chúa Giêsu, vinh quang của Đức Maria và sự ảnh hưởng của Mẹ trên Giáo Hội và các linh hồn – tất cả những điều ấy được tỏ bày cho linh hồn cách rõ ràng hơn bao giờ hết và khơi dậy nơi linh hồn những hiệu quả thiêng liêng chưa từng cảm nghiệm trước đó. Trong các ngày lễ kính các thánh – vốn phong phú và cao cả trong mùa phụng vụ này – linh hồn cảm nhận ngày càng sâu xa hơn mối dây hiệp thông liên kết mình với các ngài trong Đức Kitô, nhờ Chúa Thánh Thần. Niềm hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên quốc, vốn là phần thưởng dành cho những ai trung thành vượt qua thử thách của kiếp sống trần gian, được tỏ lộ cách sáng ngời qua lễ trọng kính Các Thánh. Nhờ đó, linh hồn dần hiểu rõ hơn về mầu nhiệm phúc lộc vĩnh cửu: một sự sống chan chứa ánh sáng và tình yêu. Được kết hiệp mật thiết hơn với Giáo Hội thánh thiện – Hiền Thê của Chúa là Đấng Tình Yêu – linh hồn bước theo Giáo Hội qua mọi chặng đường trong cuộc lữ hành dương thế: cùng mang lấy những khổ đau của Giáo Hội và hân hoan vui mừng trong những vinh thắng của Giáo Hội. Giáo Hội nhìn thấy thế gian này đang dần bước vào thời suy tàn nhưng không hề nao núng, bởi Giáo Hội biết rằng Chúa đang ở rất gần. Còn về chính bản thân mình, Giáo Hội cũng không nản lòng khi nhận thấy rằng cuộc sống bên ngoài mình đang dần suy thoái, và bức tường ngăn cách giữa Giáo Hội và thị kiến bất biến cũng như việc chiếm hữu Đấng Thiện Hảo Tuyệt Đối đang dần lụi tàn; vì Giáo Hội không sống trong thế gian này, trái tim của Giáo Hội đã từ lâu thuộc về nơi kho tàng đích thực của mình.[7] Được soi sáng, được lôi cuốn và được thiết lập vững chắc như thế nhờ việc thấm nhập chính mình vào các mầu nhiệm đã nuôi dưỡng chính mình qua Phụng Vụ Thánh, cùng với muôn ân huệ tuôn tràn từ Chúa Thánh Thần, Giáo Hội hiến mình hoàn toàn – cách tự nhiên, không gắng gượng – cho sự thúc đẩy của Đấng Rất Thánh Tối Cao. Giáo Hội thánh thiện được thấm nhuần ân sủng, nay lấy việc thực hành các nhân đức làm điều dễ dàng, vì Giáo Hội được thúc đẩy bởi khát vọng nên trọn lành, một khát vọng tưởng chừng tự nhiên nhưng thật ra là hoa trái của ân sủng. Những hy sinh vốn xưa kia từng làm cho Giáo Hội kinh sợ, giờ đây lại trở nên nguồn mạch hoan lạc cho tâm hồn. Giáo Hội dung những sự đời này như thể không lệ thuộc vào chúng,[8] vì Giáo Hội biết rằng các thực tại đích thực không thuộc về thế gian chóng qua, nhưng hệ tại ở cõi trường tồn. Quả thật, càng được tôi luyện trong lửa tình yêu Thiên Chúa, Giáo Hội càng khát khao mãnh liệt hơn sự chiếm hữu gia tài vĩnh cửu của Đấng mà Giáo Hội hết lòng yêu mến. Và ngay trong cuộc lữ hành trần thế, Giáo Hội đã được nếm trải phần nào mầu nhiệm hiệp thông, điều mà thánh Tông Đồ từng công bố: “Ai kết hợp với Chúa thì nên một thần trí với Người”.[9]
Đó là hoa trái thường phát sinh nơi tâm hồn nhờ ảnh hưởng ngọt ngào và lành mạnh của Phụng Vụ Thánh. Tuy nhiên, nếu chúng ta nhận thấy rằng, dù đã trung tín bước theo Phụng Vụ qua các mùa thánh khác nhau, chúng ta vẫn chưa đạt tới trạng thái siêu thoát và khát vọng chiêm niệm như vừa được mô tả, và sự sống của Đức Kitô vẫn chưa thực sự thấm nhập và chiếm hữu toàn thể đời sống riêng tư của chúng ta, thì chúng ta đừng vì thế mà chán nản hay thất vọng. Chu kỳ phụng vụ với những tia ánh sáng và ân sủng cho tâm hồn không phải là một hiện tượng chỉ xuất hiện một lần duy nhất trên vòm trời của Giáo Hội; nhưng nó trở lại mỗi năm. Đó chính là ý định đầy lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng “đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người”[10] – Đấng “đã không sai Con của Ngài đến để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Người mà được cứu độ.”[11] Và Giáo Hội thánh thiện chỉ đang thực thi chương trình nhiệm mầu ấy của Thiên Chúa, khi đặt trong vòng tay chúng ta những phương thế hữu hiệu nhất để dẫn đưa con người đến cùng Thiên Chúa và kết hợp họ với Đấng Tối Cao là nguồn thiện hảo tuyệt đối. Như thế, Giáo Hội biểu lộ lòng ưu ái mẫu tử sâu xa và đầy quan tâm của mình. Người Kitô hữu, nếu chưa được dẫn đến đích điểm như đã được mô tả trong nửa thời gian đầu của chu kỳ phụng vụ, thì vẫn sẽ gặp thấy nơi phần nửa thời gian sau này những trợ lực quan trọng để mở rộng đức tin và gia tăng trong đức mến. Chính Chúa Thánh Thần, Đấng hiện diện cách đặc biệt và chủ động trong giai đoạn này của Năm Phụng Vụ sẽ không ngừng tác động đến tâm trí và cõi lòng người tín hữu. Và khi một chu kỳ Năm Phụng Vụ mới bắt đầu, công trình mà ân sủng đã khơi dậy sẽ có một cơ hội mới để đạt tới sự viên mãn, mà trước đó có thể đã bị chậm trễ bởi sự yếu đuối nơi bản tính con người.
Lm. Antôn Nguyễn Phi Tiến, SVD trích dịch từ: Abbot Guéranger, O.S.B., “The Liturgical Year – Paschal Time”, Book I, Volume 10, (bản dịch tiếng Anh của Domlaurence Shepherd, O.S.B.), St. Bonaventure Publications 2000, tr. 1 – 8.
Chú thích
[1] Comes of Alcuin (Comes Alcuini) là một sách bài đọc phụng vụ (lectionary) có niên đại từ thế kỷ VIII, được cho là do Alcuin thành York (một học giả và thần học gia nổi tiếng thời Charlemagne) biên soạn hoặc ít nhất có ảnh hưởng từ ông.
[2] Gal 4, 19.
[3] x. Cr 3, 18.
[4] Kh 13, 7.
[5] Kh 22, 17.
[6] Eph 4,13
[7] x. Mt 6, 21.
[8] x. 1 Cr 7, 31.
[9] 1 Cr 6,17.
[10] Ga 3, 16.
[11] Ga 3, 17.
Vui lòng ghi: “Nguồn: Truyền Thông Tỉnh Dòng Ngôi Lời Việt Nam – ngoiloivn.net” khi đăng tải lại các bài viết từ trang này.