LỜI SỐNG (THỨ SÁU TUẦN THÁNH TƯỞNG NIỆM CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA CHÚA)

0
1208

Bài đọc 1: Is 52,13-53,12 ; Bài đọc 2: Hr 4,14-16; 5,7-9

Tin Mừng: Ga 18,1-19,42 (Đọc bài Thương Khó đầy đủ sau phần suy niệm)

[…] Đứng gần thập giá Đức Giêsu, thân mẫu Người, chị của thân mẫu, Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với Maria Mácđala. Khi thấy thân mẫu môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây con của Bà.” Rồi Người nói với môn đệ: “Đây mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình. Sau đó, Đức Giêsu biết mọi sự đã hoàn tất. để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: “Tôi khát!” Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người. […]. 

—– o0o —–


CHẾT VÌ YÊU (Tu sĩ  Phêrô Đinh Duy Linh, SVD)

Chúa Giêsu đã từng dạy chúng ta: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Chính Ngài đã thực hiện những lời dạy này khi gánh hết những tội lỗi trần gian và hiến mạng sống mình trên thập giá.

Hôm nay – thứ Sáu Tuần Thánh, Giáo Hội tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Tin Mừng thánh Gioan thuật lại cảnh tượng đau buồn và thê thảm đến tột độ. Chúa Giêsu là người từng mang đến niềm tin, niềm hy vọng cho dân chúng lầm than tội lỗi. Vậy mà dân chúng đáp lại tình yêu thương của Chúa bằng cách bán rẻ, đổ oan, bôi nhọ danh dự, lên án,… Họ tìm mọi cách để giết chết Người. Chúa Giêsu vẫn không trách cứ dân chúng. Ngài sẵn sàng gánh lấy tội lỗi của dân, chịu chết trên thập giá cách đau thương và còn cầu xin Chúa Cha tha tội cho họ vì họ không biết việc họ làm. Đến hơi thở cuối cùng, Chúa Giêsu vẫn tha thứ, ban ơn cứu độ và trao ban tình yêu cho nhân loại.

Ở đời, ai cũng khao khát yêu và được yêu như Chúa đã làm cho nhân loại. Ai cũng cảm nhận được tình yêu mang lại cho con người ý nghĩa sống, niềm vui cuộc đời và hạnh phúc. Tuy nhiên, thử hỏi có được mấy người sẵn sàng hy sinh chính mình vì tình yêu, sẵn sàng chết đi để người mình yêu được hạnh phúc, được sống. Xã hội đang ngày một thiếu vắng tình yêu khi các đôi vợ chồng sẵn sàng rời bỏ nhau vì những lý do nhỏ nhặt. Dẫu biết rằng, mỗi bên chỉ cần hy sinh một chút, nhẫn nhịn một chút, kiệm lời một chút, tôn trọng nhau một chút, hạ mình một chút là gia đình sẽ êm ấm, con cái sẽ không phải chịu cảnh mồ côi cha mẹ.

Lạy Chúa Giêsu, Ngài yêu chúng con đến nỗi hiến cả mạng sống mình, dẫu chúng con tội lỗi, vô ơn bội nghĩa với Chúa. Xin Chúa cho mỗi người chúng con luôn biết trân quý và lan tỏa tình yêu ấy đến cho mọi người xung quanh. Amen.


DƯỚI CHÂN THẬP GIÁ (Tu sĩ Giuse Tạ Quang Duy, SVD)

Dưới chân thập giá, trong khung cảnh bi thương của buổi chiều thứ sáu đầy tăm tối, chúng ta chứng kiến những cảnh tượng vừa thật đau thương, nhưng cũng vừa thật đẹp.

Thập giá, biểu tượng của sự ô nhục vào thời Chúa Giêsu, lại là vinh dự cho chúng ta. Cũng chỉ vì yêu, Đức Giêsu đã chấp nhận chết nhục nhã trên thập giá để đền bù lỗi tội cho nhân loại. Trước khi chịu treo trên thập giá, Người còn chịu bao người thóa mạ, sỉ nhục và đánh đập, những người mà đã lớn tiếng tung hô Người không lâu trước đó. Cây thập giá vẫn là biểu tượng của sự ô nhục và tội lỗi; nhưng nhờ Đức Giêsu, nó đã trở nên cây thánh giá, nên dấu chỉ của ơn cứu độ.

Trong giây phút cuối cùng trên thập giá, Đức Giêsu vẫn không quên trăng trối lại cho chúng ta món quà tuyệt vời nhất là Đức Maria. Người phó chúng ta vào tay Mẹ Maria, người mẹ đã tần tảo chăm sóc cho Đấng Cứu Thế suốt cuộc đời dương thế của Người. Đứng dưới chân thập giá, hẳn là Mẹ đã đau khổ như đứt từng khúc ruột. Sao mà không đau khổ cho được khi chứng kiến người con duy nhất của mình phải chịu chết đau đớn, lại còn bị bao người nhục mạ như vậy. Thế nhưng, sự đau khổ mà Đức Maria chịu không mang ý nghĩa tiêu cực. Mẹ đau khổ cùng với Con mình, đồng thời vẫn “hằng ghi nhớ và suy niệm trong lòng” chứ không than trách. Đức Maria đã là món quà Chúa trao cho ta, cũng như là mẫu gương tuyệt hảo để chúng ta noi theo.

Lạy Chúa Giêsu, Ngài dù vô tội nhưng đã chịu chết vì tội lỗi của loài người chúng con và ban cho chúng con người mẹ để chúng con được trở nên đàn em bé nhỏ của Ngài. Xin giúp chúng con biết noi gương Mẹ Maria để biết hy sinh bản thân mỗi ngày, biết từ bỏ những thói hư, hầu xứng đáng với tình yêu của Ngài và mai sau được hưởng hạnh phúc nơi quê trời vĩnh cửu. Amen.


 

AI XỬ AI? (Lm. GB. Nguyễn Hữu Duy, SVD)

 

CHẾT VÌ TÌNH YÊU (Tu sĩ Giuse Hoàng Quốc Phán, SVD)

Cuộc sống nếu không có tình yêu thì chẳng có ý nghĩa gì. Tình yêu làm cho con người hạnh phúc. Hạnh phúc của tình yêu hoàn toàn khác biệt so với hạnh phúc của tiền tài, danh vọng và địa vị mang lại. Chỉ có tình yêu mới làm cho hạnh phúc trở nên điều huyền diệu.

Trong bài Thương Khó của thứ Sáu Tuần Thánh hôm nay, Đức Giêsu đã chứng minh cho nhân loại thấy tình yêu của Người dành cho nhân loại. Một tình yêu không bờ bến, không toan tính thua thiệt. Người yêu cho đến nỗi hiến mạng vì người mình yêu. Điều này được thánh Gioan xác quyết: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).

Tình yêu và sự hy sinh đến tột cùng của Chúa Giêsu chính là việc Người chấp nhận đi trên con đường khổ giá để nhân loại được sống trong hạnh phúc. Người chết để cho chúng ta được sống và sống viên mãn. Tất cả chỉ vì yêu thương con người, và cứu chuộc con người. Điều này đã được thánh Phaolô minh định: “… Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5, 7-8).

Càng đi sâu vào bài Thương Khó, chúng ta càng nhận ra một tình yêu không bờ bến mà Thiên Chúa dành cho nhân loại chúng ta. Kể từ đây, cái chết trên thập giá không còn được hiểu là một án tử như xưa, nhưng là hiến lễ của tình yêu. Cũng qua cái chết của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã khai mở cho chúng ta sự sống vĩnh cửu.

Hôm nay chúng ta chiêm ngắm hành trình cuộc thương khó của Chúa Giêsu như là mẫu gương cho cuộc đời chúng ta. Xin Chúa ban cho chúng ta ơn can đảm để giám hiến tế đời mình, nhằm minh chứng tình yêu Chúa cho đồng loại. Amen.


 

YÊU KẺ THÙ (Lm. Antôn Chu Văn Nhật, SVD)

rình thuật Thương Khó hôm nay, Đức Giêsu đang đối diện với một thực tế quá bi đát, đau thương. Bởi vì, hầu như tất cả mọi người đang quay lưng lại với Người, họ chống đối và tìm mọi cách để dẫn Người vào một cái chết thật nhục nhã.

Thật vậy, các Tư tế và Biệt phái đang chủ mưu vận động để kết án tử Đức Giêsu. Dân chúng, những người mới hôm qua chịu ơn, nay lại quay qua phản bội, đòi đóng đinh Người và tha cho tên cướp khét tiếng Baraba. Những tên lý hình đang chực chờ để hành hình Đức Giêsu. Trong thời khắc Thầy Giêsu đang cần sự động viên, chia sẻ và cảm thông nhất, thì những đồ đệ thân tín nhất lại bỏ Người chạy trốn hết. Thật là cô đơn, cay đắng và tủi nhục đến tột cùng. Ấy vậy mà, Đức Giêsu đã không ghét bỏ, oán trách hay thù hận, ngược lại Người vẫn yêu thương họ đến cùng. Bằng chứng là trước lúc hấp hối, Người đã xin Chúa Cha tha thứ tội lỗi chọ họ: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).

Quả thật, yêu thương kẻ thù là một đòi hỏi xem ra thiếu thực tế đối với chúng ta. Làm sao tôi có thể yêu thương một người đã gây ra biết bao đau thương cho tôi và đã làm hại tôi. Làm sao tôi có thể yêu một người bội nghĩa, bất trung; một người luôn luôn tìm cách chống đối mình. Quả thật, đó là một đòi hỏi khó, nhưng lại là đòi hỏi chính yếu để tôi được nên trọn lành như Thầy Giêsu, và cũng là điều kiện để đạt được ơn cứu độ. Bởi vì Chúa nói, nếu chúng ta yêu người yêu thương mình thì quá dễ, điều này xảy ra tự nhiên mà không cần nỗ lực hay cố gắng, ngay cả người ngoại cũng làm như vậy.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu thương hết mọi người dù đó là ai, dù đó có là kẻ thù của chúng con. Có như thế, chúng con mới xứng đáng là con cái của Cha Trên Trời. Amen.

————–

BÀI THƯƠNG KHÓ

Tin Mừng: Ga 18, 1-19, 42

1 Sau khi nói những lời đó, Đức Giê-su đi ra cùng với các môn đệ, sang bên kia suối Kít-rôn. Ở đó, có một thửa vườn, Người cùng với các môn đệ đi vào. 2 Giu-đa, kẻ nộp Người, cũng biết nơi này, vì Người thường tụ họp ở đó với các môn đệ.

3 Vậy, Giu-đa tới đó, dẫn một toán quân cùng đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pha-ri-sêu ; họ mang theo đèn đuốc và khí giới.

4 Đức Giê-su biết mọi việc sắp xảy đến cho mình, nên tiến ra và hỏi: “Các anh tìm ai ?”

5 Họ đáp: “Tìm Giê-su Na-da-rét.” Người nói: “Chính tôi đây.” Giu-đa, kẻ nộp Người, cũng đứng chung với họ. 6 Khi Người vừa nói: “Chính tôi đây”, thì họ lùi lại và ngã xuống đất.

7 Người lại hỏi một lần nữa: “Các anh tìm ai ?” Họ đáp: “Tìm Giê-su Na-da-rét.” 8 Đức Giê-su nói: “Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi.”

9 Thế là ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã nói: “Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai.”

10 Ông Si-môn Phê-rô có sẵn một thanh gươm, bèn tuốt ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế, mà chém đứt tai phải của y. Người đầy tớ ấy tên là Man-khô. 11 Đức Giê-su nói với ông Phê-rô: “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống ?”

12 Bấy giờ toán quân và viên chỉ huy cùng đám thuộc hạ của người Do-thái bắt Đức Giê-su và trói Người lại. 13 Trước tiên, họ điệu Đức Giê-su đến ông Kha-nan là nhạc phụ ông Cai-pha. Ông Cai-pha làm thượng tế năm đó.

14 Chính ông này đã đề nghị với người Do-thái là nên để một người chết thay cho dân thì hơn. 15 Ông Si-môn Phê-rô và một môn đệ khác đi theo Đức Giê-su. Người môn đệ này quen biết vị thượng tế, nên cùng với Đức Giê-su vào sân trong của tư dinh vị thượng tế.

16 Còn ông Phê-rô đứng ở phía ngoài, gần cổng. Người môn đệ kia quen biết vị thượng tế ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phê-rô vào. 17 Người tớ gái giữ cổng nói với ông Phê-rô: “Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của người ấy sao ?” Ông liền đáp: “Đâu phải.”

18 Vì trời lạnh, các đầy tớ và thuộc hạ đốt than và đứng sưởi ở đó ; ông Phê-rô cũng đứng sưởi với họ. 19 Vị thượng tế tra hỏi Đức Giê-su về các môn đệ và giáo huấn của Người.

20 Đức Giê-su trả lời: “Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Đền Thờ, nơi mọi người Do-thái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. 21 Sao ông lại hỏi tôi ? Điều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì.”

22 Đức Giê-su vừa dứt lời, thì một tên trong nhóm thuộc hạ đứng đó vả vào mặt Người mà nói: “Anh trả lời vị thượng tế như thế ư ?” 23 Đức Giê-su đáp: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào ; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi ?”

24 Ông Kha-nan cho giải Người đến thượng tế Cai-pha, Người vẫn bị trói. 25 Còn ông Si-môn Phê-rô thì vẫn đứng sưởi ở đó. Người ta nói với ông: “Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của ông ấy sao ?” Ông liền chối: “Đâu phải.”

26 Một trong các đầy tớ của vị thượng tế, có họ với người bị ông Phê-rô chém đứt tai, lên tiếng hỏi: “Tôi đã chẳng thấy bác ở trong vườn với ông ấy sao ?” 27 Một lần nữa ông Phê-rô lại chối, và ngay lúc ấy gà liền gáy.

28 Vậy, người Do-thái điệu Đức Giê-su từ nhà ông Cai-pha đến dinh tổng trấn. Lúc đó trời vừa sáng. Nhưng họ không vào dinh kẻo bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được.

29 Vì thế, tổng trấn Phi-la-tô ra ngoài gặp họ và hỏi: “Các người tố cáo ông này về tội gì ?” 30 Họ đáp: “Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan.”

31 Ông Phi-la-tô bảo họ: “Các người cứ đem ông ta đi mà xét xử theo luật của các người.” Người Do-thái đáp: “Chúng tôi không có quyền xử tử ai cả.” 32 Thế là ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã nói, khi ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.

33 Ông Phi-la-tô trở vào dinh, cho gọi Đức Giê-su và nói với Người: “Ông có phải là vua dân Do-thái không ?” 34 Đức Giê-su đáp: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi ?”

35 Ông Phi-la-tô trả lời: “Tôi là người Do-thái sao ? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì ?”

36 Đức Giê-su trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này.”

37 Ông Phi-la-tô liền hỏi: “Vậy ông là vua sao ?” Đức Giê-su đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.”

38 Ông Phi-la-tô nói với Người: “Sự thật là gì ?” Nói thế rồi, ông lại ra gặp người Do-thái và bảo họ: “Phần ta, ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy. 39 Theo tục lệ của các người, vào dịp lễ Vượt Qua, ta thường tha một người nào đó cho các người. Vậy các người có muốn ta tha vua dân Do-thái cho các người không ?”

40 Họ lại la lên rằng: “Đừng tha nó, nhưng xin tha Ba-ra-ba!” Mà Ba-ra-ba là một tên cướp.

 

1 Bấy giờ ông Phi-la-tô truyền đem Đức Giê-su đi và đánh đòn Người. 2 Bọn lính kết một vòng gai làm vương miện, đặt lên đầu Người, và khoác cho Người một áo choàng đỏ. 3 Họ đến gần và nói: “Kính chào vua dân Do-thái!”, rồi vả vào mặt Người.

4 Ông Phi-la-tô lại ra ngoài và nói với người Do-thái: “Đây ta dẫn ông ấy ra ngoài cho các người, để các người biết là ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy.”

5 Vậy, Đức Giê-su bước ra ngoài, đầu đội vương miện bằng gai, mình khoác áo choàng đỏ. Ông Phi-la-tô nói với họ: “Đây là người!”

6 Khi vừa thấy Đức Giê-su, các thượng tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên rằng: “Đóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá!” Ông Phi-la-tô bảo họ: “Các người cứ đem ông này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy.”

7 Người Do-thái đáp lại: “Chúng tôi có Lề Luật ; và chiếu theo Lề Luật, thì nó phải chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa.” 8 Nghe lời đó, ông Phi-la-tô càng sợ hơn nữa.

9 Ông lại trở vào dinh và nói với Đức Giê-su: “Ông từ đâu mà đến ?” Nhưng Đức Giê-su không trả lời. 10 Ông Phi-la-tô mới nói với Người: “Ông không trả lời tôi ư ? Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao ?”

11 Đức Giê-su đáp lại: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn.”

12 Từ đó, ông Phi-la-tô tìm cách tha Người. Nhưng dân Do-thái kêu lên rằng: “Nếu ngài tha nó, ngài không phải là bạn của Xê-da. Ai xưng mình là vua, thì chống lại Xê-da.”

13 Khi nghe thấy thế, ông Phi-la-tô truyền dẫn Đức Giê-su ra ngoài. Ông đặt Người ngồi trên toà, ở nơi gọi là Nền Đá, tiếng Híp-ri là Gáp-ba-tha. 14 Hôm ấy là ngày áp lễ Vượt Qua, vào khoảng mười hai giờ trưa. Ông Phi-la-tô nói với người Do-thái: “Đây là vua các người!”

15 Họ liền hô lớn: “Đem đi! Đem nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!” Ông Phi-la-tô nói với họ: “Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các người sao ?” Các thượng tế đáp: “Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Xê-da.”

16 Bấy giờ ông Phi-la-tô trao Đức Giê-su cho họ đóng đinh vào thập giá. Vậy họ điệu Đức Giê-su đi.

17 Chính Người vác lấy thập giá đi ra, đến nơi gọi là Cái Sọ, tiếng Híp-ri là Gôn-gô-tha; 18 tại đó, họ đóng đinh Người vào thập giá, đồng thời cũng đóng đinh hai người khác nữa, mỗi người một bên, còn Đức Giê-su thì ở giữa.

19 Ông Phi-la-tô cho viết một tấm bảng và treo trên thập giá ; bảng đó có ghi: “Giê-su Na-da-rét, vua dân Do-thái.” 20 Trong dân Do-thái, có nhiều người đọc được bảng đó, vì nơi Đức Giê-su bị đóng đinh là một địa điểm ở gần thành. Tấm bảng này viết bằng các tiếng: Híp-ri, La-tinh và Hy-lạp.

21 Các thượng tế của người Do-thái nói với ông Phi-la-tô: “Xin ngài đừng viết: ‘Vua dân Do-thái’, nhưng viết: ‘Tên này đã nói: Ta là vua dân Do-thái’.” 22 Ông Phi-la-tô trả lời: “Ta viết sao, cứ để vậy!”

23 Đóng đinh Đức Giê-su vào thập giá xong, lính tráng lấy áo xống của Người chia làm bốn phần, mỗi người một phần ; họ lấy cả chiếc áo dài nữa. Nhưng chiếc áo dài này không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới.

24 Vậy họ nói với nhau: “Đừng xé áo ra, cứ bắt thăm xem ai được.” Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Áo xống tôi, chúng đem chia chác, cả áo dài, cũng bắt thăm luôn. Đó là những điều lính tráng đã làm.

25 Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la. 26 Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà.”

27 Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình. 28 Sau đó, Đức Giê-su biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: “Tôi khát!”

29 Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người.

30 Nhắp xong, Đức Giê-su nói: “Thế là đã hoàn tất!” Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí.

31 Hôm đó là ngày áp lễ, người Do-thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày sa-bát, mà ngày sa-bát đó lại là ngày lễ lớn. Vì thế họ xin ông Phi-la-tô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống.

32 Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Đức Giê-su. 33 Khi đến gần Đức Giê-su và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người.

34 Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. 35 Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin.

36 Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập. 37 Lại có lời Kinh Thánh khác: Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu.

38 Sau đó, ông Giô-xếp, người A-ri-ma-thê, xin ông Phi-la-tô cho phép hạ thi hài Đức Giê-su xuống. Ông Giô-xếp này là một môn đệ theo Đức Giê-su, nhưng cách kín đáo, vì sợ người Do-thái. Ông Phi-la-tô chấp thuận. Vậy, ông Giô-xếp đến hạ thi hài Người xuống.

39 Ông Ni-cô-đê-mô cũng đến. Ông này trước kia đã tới gặp Đức Giê-su ban đêm. Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương.

40 Các ông lãnh thi hài Đức Giê-su, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người Do-thái.

41 Nơi Đức Giê-su bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai.

42 Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Do-thái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giê-su ở đó.

Bài trướcYÊU ĐẾN CÙNG (Bài giảng Thứ Năm Tuần Thánh)
Bài tiếp theoMùa Chay: Yêu và Hy Sinh