CHÚ GIẢI TIN MỪNG CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY, NĂM B (Ga 3,13-21)

0
2380

CHUYỆN TRÊN TRỜI DƯỚI ĐẤT

Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD

 

Hy Lạp Việt
13  καὶ οὐδεὶς ἀναβέβηκεν εἰς τὸν οὐρανὸν εἰ μὴ ὁ ἐκ τοῦ οὐρανοῦ καταβάς, ὁ υἱὸς τοῦ ἀνθρώπου.

14  Καὶ καθὼς Μωϋσῆς ὕψωσεν τὸν ὄφιν ἐν τῇ ἐρήμῳ, οὕτως ὑψωθῆναι δεῖ τὸν υἱὸν τοῦ ἀνθρώπου,

15  ἵνα πᾶς ὁ πιστεύων ἐν αὐτῷ ἔχῃ ζωὴν αἰώνιον.

16  οὕτως γὰρ ἠγάπησεν ὁ θεὸς τὸν κόσμον, ὥστε τὸν υἱὸν τὸν μονογενῆ ἔδωκεν, ἵνα πᾶς ὁ πιστεύων εἰς αὐτὸν μὴ ἀπόληται ἀλλ᾽ ἔχῃ ζωὴν αἰώνιον.

17  οὐ γὰρ ἀπέστειλεν ὁ θεὸς τὸν υἱὸν εἰς τὸν κόσμον ἵνα κρίνῃ τὸν κόσμον, ἀλλ᾽ ἵνα σωθῇ ὁ κόσμος δι᾽ αὐτοῦ.

18  ὁ πιστεύων εἰς αὐτὸν οὐ κρίνεται· ὁ δὲ μὴ πιστεύων ἤδη κέκριται, ὅτι μὴ πεπίστευκεν εἰς τὸ ὄνομα τοῦ μονογενοῦς υἱοῦ τοῦ θεοῦ.

19  αὕτη δέ ἐστιν ἡ κρίσις ὅτι τὸ φῶς ἐλήλυθεν εἰς τὸν κόσμον καὶ ἠγάπησαν οἱ ἄνθρωποι μᾶλλον τὸ σκότος ἢ τὸ φῶς· ἦν γὰρ αὐτῶν πονηρὰ τὰ ἔργα.

20  πᾶς γὰρ ὁ φαῦλα πράσσων μισεῖ τὸ φῶς καὶ οὐκ ἔρχεται πρὸς τὸ φῶς, ἵνα μὴ ἐλεγχθῇ τὰ ἔργα αὐτοῦ·

21  ὁ δὲ ποιῶν τὴν ἀλήθειαν ἔρχεται πρὸς τὸ φῶς, ἵνα φανερωθῇ αὐτοῦ τὰ ἔργα ὅτι ἐν θεῷ ἐστιν εἰργασμένα.

(Jn. 3:13-21 BGT)

13 và không ai đã đi lên vào trời nếu không phải Người đến từ trời đến, Người Con của con người (Con Người)

14 Hệt như Ông Mô-sê đã giương cao con rằng đồng trong sa mạc, Con Người cũng phải được giương cao như vậy.

15 để mà tất cả những người tin vào Người có thể có sự sống đời đời

16 vì theo cách này, Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi Người đã trao ban con một để tất cả những người tin vào Người không bị phá hủy nhưng có sự sống muôn đời

17 bởi vì, Thiên Chúa không sai Người Con vào trong thế gian để kết án thế gian, nhưng để thể gian có thể được cứu độ nhờ Người

18 Người tin vào Người không bị kết án nhưng người không tin đã bị kết án rồi, bởi vì anh ta/chị ta đã không tin vào danh con một của Thiên Chúa.

19 đây là bản án, rằng ánh sáng đã xuất hiện trong thế gian và những con người (người ta) đã yêu bóng tối hơn là ánh sáng vì những việc làm của họ xấu xa.

20 vì tất cả những ai làm sự xấu thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để những công việc của họ không bị đem ra ánh sáng.

21 những người làm sự thật thì đến cùng ánh sáng, để mà những công việc của họ được tỏ lộ vì họ hành động trong Chúa.

  1. Bối cảnh bản văn:

Bản văn Ga 3,13-21 được trích ra từ trình thuật nói về cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su và ông Ni-cô-đê-mô. Ni-cô-đê-mô là đại diện cho giới trí thức và lãnh đạo tinh nhần của Người Do Thái. Ông được gọi là “một thủ lãnh của người Do Thái” (3,1). Ông cũng là một người Pha-ri-sêu (Ga 7,48). Cuối cùng ông được nhắc đến như là “người đã đến gặp Đức Giê-su” ban đêm (Ga 19,39). Cuộc đối thoại này là dữ liệu độc quyền của tác giả Tin Mừng thứ tư (thường hiểu là Tin Mừng Gioan). Ông Ni-cô-đê-mô cũng là nhân vật chỉ được nhắc đến trong Tin Mừng thứ tư. Ông là người rất có thiện cảm với Đức Giê-su và có lẽ cũng âm thầm theo Đức Giê-su. Cách mà ông xuất hiện cùng với Giu-se A-ri-ma-thê-a, “một môn đệ theo Đức Giê-su, nhưng cách kín đáo” (Ga 19,38). Rồi, cách mà ông đến với Đức Giê-su cũng có lẽ ám chỉ sự “theo cách kín đáo” của ông: “ông đến gặp Đức Giê-su ban đêm” (Ga 3,1; 19,39). Trong con mắt của Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su là một vị “tôn sư được Thiên Chúa sai đến” (Ga 3,2a). Ông cũng tin rằng Thiên Chúa ở cùng Đức Giê-su. Nhờ đó, Đức Giê-su mới có thể làm những dấu lạ (Ga 3,2b). Cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su và Ni-cô-đê-mô được khởi đầu như thế. Những chủ đề trong cuộc đối thoại này rõ ràng nối kết cách mạch thiết với chủ đề của những đoạn trước đó. Đây là đoạn văn nằm trong “Sách Các Dấu Lạ” (1,19-12,50).[1] Cụ thể hơn, nó nằm trong phần hai của “Sách Các Dấu Lạ”: Từ Cana đến Cana (Ga 2,1 – 4,54), vốn được đóng khung bằng 2 dấu lạ.[2] Chủ đề dấu lạ trong cụm danh từ “những dấu lạ Thầy làm” (3,2b) rõ ràng nối kết với “dấu lạ đầu tiên trong tiệc cưới Cana” (2,11). Nó cũng nối kết với đoạn văn về “Thanh Tẩy đền thờ trước đó” khi Người Do Thái đòi đức Giê-su chứng mình Người có quyền làm điều ấy bằng một dấu lạ (2,18). Rồi, “nhiều người” tin vào danh của Người vì thấy những dấu lạ Người đã làm (2,23). Chủ đề thứ hai là chủ đề “tin” cũng sâu chuỗi ba trình thuật này lại với nhau. Trong trình thuật “Tiệc Cưới Cana” (2,1-12), các môn đệ đã chứng kiến phép lạ và đã “tin vào Người” (2,11). Trình thuật “Thanh tẩy đền thờ” (2,13-25), ghi lại niềm tin của các môn đệ sau khi Đức Giê-su sống lại (2,21) và của “nhiều người”. Đối tượng của niềm tin dĩ nhiên là Đức Giê-su và lời của Người. Trong trình thuật “cuộc đối thoại giữa Ni-cô-đê-mô và Đức Giê-su” (3,1-21), Đức Giê-su cũng đề cập đến niềm tin vào lời của Người: “nếu như tôi nói với các ông về những chuyện dưới đất mà ông không tin thì giả như tôi nói với các ông về những sự trên trời làm sao các ông tin được?” (3,12). Đoạn văn (3,13-21) tiếp theo ngay sau câu nói này của Đức Giê-su và một chủ đề khác được nối kết với trình thuật về “Thanh Tẩy đền thờ” (2,13-25). Đó là chủ đề “giương cao con rắn đồng” // “Con Người được giương cao”. Chủ đề này rõ ràng ám chỉ đến cái chết của Đức Giê-su trên thập giá, nơi Người cũng được treo lên. Trong đoạn về “Thanh Tẩy đền thờ” trước đó, Đức Giê-su nói đến việc “phá hủy đền thờ” là “thân thể Người”. Mạc khải này cũng ám chỉ đến cái chết của Người. Ngoài ra, chủ đề “Tin vào Người thì được sống đời đời” (3,15-16) cũng nối kết với toàn bộ Tin Mừng Gioan. Thật vậy, Tin Mừng Gioan kết bằng việc cho thấy mục đích của toàn bộ Tin Mừng: “để nhờ tin mà được sự sống đời đời nhờ danh của Người” (20,31). Chủ đề “danh của Người” trong câu kết này rõ ràng làm cho người ta nghĩ ngay đến “danh Con Một Thiên Chúa” trong đoạn này, đoạn chúng ta đang nghiên cứu (3,13-21). Chủ đề “ánh sáng và bóng tối” trong đoạn này lại đưa độc giả trở về “Lời Tựa của Tin Mừng thứ tư” (1,1-18), nơi mà Gioan giới thiệu rằng: “điều đã được tạo thành nơi Người là sự sống, mà sự sống là ánh sáng cho nhân loại; ánh sáng ấy chiếu soi trong bóng tối và bóng tối ấy không diệt được ánh sáng ấy” (1,3-5). Thêm vào đó, Gioan được sai đến để làm chứng về “ánh sáng” (1,7-8). Nhất là, xác định quan trọng của người thuật chuyện “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (1,9). Trong đoạn Tin Mừng này, người thuật chuyện cũng nhấn mạnh “Ánh sáng đã đến thế gian” (3,19). Trong bối cảnh trực tiếp, đoạn văn này cũng liên hệ với đoạn sau bằng chủ đề “phép rửa”. Sự kiện Đức Giê-su làm phép rửa và Gioan làm phép rửa (3,22-23), rồi cuộc tranh luận về phép rửa (3,25-30) // “sinh ra một lần nữa bởi ơn trên” (3,3). Chủ đề “Đấng từ trên cao mà đến” ở đoạn sau (3,31) cũng không hề xa lạ với “không ai đã lên trời ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (3,13). Một cách sơ lược về bối cảnh để thấy rằng đoạn Ga 3,13-21, trong bối cảnh trực tiếp hay bối cảnh rộng hơn, thậm chí là toàn bộ Tin Mừng, đều có sự liên hệ, nối kết rất mật thiết.

  1. Giới hạn và cấu trúc bản văn:

2.1 Giới hạn: Đoạn văn này được chọn bắt đầu từ 3,13 có vẻ như không thỏa đáng. Nó cắt mạch dòng những câu nói của Đức Giê-su và Ni-cô-đê-mô trước đó. Rất khó để cho rằng đây là một ngắt đoạn hoàn thiện. Có thể thấy rằng không có dấu hiệu chuyển đoạn cách rõ ràng. Có lẽ, vì đoạn văn trước đó khá dài nên, Phụng vụ muốn ngắt ở câu này. Khác với phần mở đầu, phần kết đoạn này khá ổn. Nó kết thúc câu chuyện đối thoại giữa Đức Giê-su và Ni-cô-đê-mô. 3,22 là một sự chuyển mạch rất rõ ràng về thời gian và nơi chốn. Do vậy, 3,21 là một kết thúc lý tưởng cho đoạn này.

2.2 Cấu trúc: Đoạn 3,13-21 được cấu trúc bởi một chuỗi những hành động và mục đích của Thiên Chúa, Đức Giê-su và các nhân vật trong đó. Có thể được chia thành bốn phần. Phần A (3,13-15). Phần này được khởi đầu bằng giới thiệu về nguồn gốc Con Người (3,13) và tiếp theo bởi cấu trúc “Hành động – mục đích”: Hành động (Aa: 3,14): “Con Người được giương cao” và mục đích (Ab: 3,15): là để “ai tin vào Người, có thể có sự sống đời đời”. Phần B (3, 16-17) bắt đầu bằng diễn tả động lực quan trọng của mọi hành động của Thiên Chúa trên nhân loại ở B (3,6a): “Thiên Chúa yêu thế gian”. Động lực này dẫn đến hai cặp hành động – mục đích của Thiên Chúa. (1) Hành động trao ban ở B1 (3,6b): “Trao tặng Con Một”. Hành động cao cả này nhằm một mục đích kép (phủ định và khẳng định) ở B2 (3,6c): “Để người tin không chết, nhưng có sự sống đời đời”. (2) Hành động mang tính sứ vụ ở B3 (3,17): “Thiên Chúa sai Người Con”. Hành động này cũng có mục đích kép (khẳng định và phủ định) ở B4 (3, 17b): “không phải để lên án, nhưng để thế gian được cứu độ nhờ Người”. Phần C được cấu tạo bởi hai chọn lựa trái ngược và hai hậu quả trái ngược đi theo hai hành động này C1 (3,18a): “Người tin vào Người không bị kết án” và C2 (3,18b) “kẻ không tin đã bị kết án rồi”. Ngoài ra, phần C còn có thêm phần là lý giải cho việc bị kết án ở C3 (3,18c): “Vì đã không tin vào danh Con Một Người”. Phần D dành riêng để nói về nội dung bản án. Phần D bắt đầu bằng việc công bố bản án (3,19). Tiếp theo sau đó là hai cặp hành động – mục đích. (1) hành động của “kẻ làm điều xấu”: ghét và không đến cùng ánh sáng ở D1 (3,20a). Mục đích của họ là “để công việc của anh ta không được đưa ra ánh sáng” ở D2 (3,20b). (2) Hành động của kẻ làm điều chân thật: “đến cùng ánh sáng” ở D3 (21a). Mục đích của hành động này là “để công việc của anh ta được tỏ bày” ở D4 (3,21b). Phần D cũng có thêm phần lý giải cho mục đích “để công việc được anh ta được tỏ lộ” ở D5 (3,21c): “vì nó được thực hiện trong Chúa”. Lược đồ của đoạn văn này có thể được phác họa như sau: Hành động – mục đích của Con Người (viết hoa) bắt nguồn từ động lực – hành động – mục đích của Thiên Chúa  mang đến chọn lựa – hiệu quả – ơn cứu độ hoặc bản án cho “thế gian”.

A. Nguồn gốc và đích điểm của Con Người: Từ trên xuống và lại lên trời (3,13)

A1. Hành động: Con Người được Giương cao (3,14)

A2. Mục đích: Để tất cả những ai tin thì có sự sống đời đời (3,15)

B. Động lực: Thiên Chúa Yêu thế gian (3,16a)

B1. Hành động: Trao ban Con Một (3,16b)

B2. Mục đích:  Đ người tin không chết nhưng được sống đời đời (3,16c)

B.3 Hành động: Thiên Chúa đã sai Người Con đến (3,17a)

B.4 Mục đích: Không đ kết án nhưng đ thế gian được cứu đ (3,17b)

C. Chọn lựa và hiệu quả:

C1. Người tin không bị kết án (3,18a)

C2. Người không tin đã bị kết án (3,18b)

C3. Lý do: vì không tìn vào danh Con Một (3,18c)

D. Bản án: Người ta yêu bóng tối hơn vì những việc làm của họ đều xấu xa (3,19)

D1. Hành động: Kẻ làm điều xấughét và không đến cùng ánh sáng (3,20a)

D2. Mục đích: Đ công việc của họ không bị phơi bày (3,20b)

D3. Hành động: Kẻ làm điều thật – đến cùng ánh sáng (3,21a)

D4. Mục đích: Đ công việc được tỏ lộ (3,21b)

D5. Lý do: vì nó được làm trong Thiên Chúa (3,21c)

 

  • Một số điểm chú giải
    • “Đi lên vào trời (ἀναβέβηκεν εἰς τὸν οὐρανὸν): Đức Giê-su bật mí cho Ông Ni-cô-đê-mô về khả năng của một người duy nhất trên trần gian này. Đó là Con Người. Chỉ có Con Người mới có khả năng “lên trời”. Chi tiết này khẳng định nguồn gốc của Người đã từ trời. Không lâu sau đó người thuật chuyện sẽ cho độc giả biết là làm thế Con Người đã đến thế gian. Chúa Cha đã sai Người đến (3,17a). Động từ “đi lên” được dùng ở thì hoàn thành có vẻ diễn tả rằng Con Người đã lên trời trong khi nơi bối cảnh này rõ ràng Đức Giê-su vẫn chưa bước vào cuộc khổ nạn. Chính vì thế mà R. Brown cảm thấy đó là một vấn nạn. Một số chuyên gia tin rằng, người nói câu này không phải Đức Giê-su mà là tác giả Tin Mừng. Đây đơn giản là một phản tỉnh về “sự thăng thiên của Đức Giê-su”. Những chuyên gia khác như là Lagrange và Bernard cho rằng, thì quá khứ ngụ ý đơn giản rằng: cho đến thời điểm Đức Giê-su nói câu này chưa có ai đã từng lên trời để biết các sự trên trời, và rằng câu này muốn nhấn mạnh đến sự “đi xuống” của Con Người chứ không phải” sự “đi lên”.[3] Sự “đi xuống” được nói đến trong c.13 như là một giả định của sự “đi lên” (qua thập giá) vì ơn cứu độ cho nhân loại.[4] Kiểu nói “đi lên” dù là phản tỉnh hay thực tế thì cũng có thể làm cho độc giả nghĩ đến mầu nhiệm “thăng thiên” và “sự đi xuống” của Con Người. Nó không khỏi làm người ta nghĩ đến nguồn gốc của Người Con và mầu nhiệm Nhập Thể, được Gioan nói đến trong Lời Tựa. Trong bối cảnh trực tiếp, nó cũng liên hệ chặt chẽ đến việc “ban Con Một” và “Sai Người Con xuống thế gian” (3,16-17). 3,13 là một bảo chứng cho tất cả những lời chứng của Đức Giê-su với ông Ni-cô-đê-mô. Người là Đấng có nguồn gốc từ trời cao, nên Người có thẩm quyền nói về những chuyện thuộc về trời cao, về sự tái sinh và sự sống đời đời.
    • Con trai của con người (Con Người) (ὁ υἱὸς τοῦ ἀνθρώπου): Danh xưng này trong tiếng Do Thái là בֶן־אָ֜דָ֗ם nghĩa là “Con trai của nhân loại” hay “con trai của loài người”. Danh xưng này trong Cựu Ước nhiều lần được dùng để nhấn mạnh sự mong manh (Is 51,12, G 25,6) nhỏ bé của con người trước Thiên Chúa (Tv 11,4). Đôi khi nó còn được dùng để chỉ thân phận con người tội lỗi (Tv 14,2t; 31,20) sẽ phải chết (Tv 89,48; 90,3). Danh xưng này còn xuất hiện trong văn chương khải huyền Do Thái như là nhân vật thần linh đến từ đám mây, tiến đến trước tòa Thiên Chúa và nhận lãnh vương quyền phổ quát (7,13).[5] Nó đơn giản nói về nhân loại cách chung.[6] Danh xưng này xuất hiện 70 lần trong toàn bộ Tin Mừng. Chỉ có Đức Giê-su dùng danh xưng này và cho chính Đức Giê-su, ngoại trừ một lần trong Tin Mừng Gioan nơi dân chúng lặp lại để hỏi Đức Giê-su về sự trường tồn của Đấng Ki-tô (Ga 12,34). “Con Người” được sử dụng 13 lần trong toàn bộ Tin Mừng thứ tư (1,51; 3,13.14; 5,27; 6,27.53.62; 8,28; 9,35;12,23; 12,34a.b.; 13,31). Tin Mừng này nói về khía cạnh vinh quang của Con Người (12,23.28; 13,31.32). Con Thiên Chúa thi hành quyền phán xét vào ngày sau hết với tư cách là Con Người (5,26-29); Thiên thần lên xuống trên Con Người (1,51); Người từ trời đến (3,13) và Người sẽ lên nơi Người ngự trước kia (6,62); Con Người phải trải qua thập giá (9,35). Trong cái nhìn của Gioan, Thập giá trùng hợp với sự trở về trời để Con Người được vinh thăng: “Con Người phải được treo lên” (3,14; 12,34); vinh hiển của Người là ở chỗ ấy (12,23; 13,31).[7] Trong Tin Mừng thứ tư, sự tôn vinh của Con Người cũng được nhấn mạnh (Ga 12,23; 13,31). Ngoài ra, quyền xét xử (5,27); Quyền trao ban sự sống (6,27); Đấng được đặt niềm tin vào (9,35); Đấng mà thịt Người được ăn (6,35) Trong đoạn văn này danh xưng “Con Người” được dùng như là một đấng từ “trên đi xuống” và từ “dưới đi lên”. Con Người cũng gắn liền với sự “được giương cao” (3,14; cf. 8,28) như ông Mô-sê đã giương cao “con rắn đồng trong sa mạc”. Danh xưng này cũng được đặt bên cạnh danh xưng “Con Một của Thiên Chúa”. C. Barett hiểu rằng “chính trong tư cách là Con Người mà Đức Giê-su định dạng sự nối kết giữa hai không gian trời và đất, sự hiện hữu trần thế của Người là nơi mà những thực tại trên trời tỏ hiện và cũng là nơi mà những thực tại trên trời bị nhân loại chối từ”.[8]
    • Con Trai Một” (τὸν υἱὸν τὸν μονογενη): Đây là một danh xưng mang tính Ki-tô học khác được dùng trong Tin Mừng này. Chỉ có tác giả Tin Mừng thứ tư sử dụng danh xưng này cho Đức Giê-su. Luca có dùng một lần trong “Phép lạ chữa lành con trai của bà góa thành Nain” (Lc 7,11-17). Cậu này cũng là “Con Trai Một”. Xem ra “con trai một” của Luca cũng liên quan chút ít với Đức Giê-su ở chỗ cậu cũng được làm cho chỗi dậy. Tuy vậy, hai cách chỗi dậy không hoàn toàn giống nhau. Tác giả Tin Mừng thứ tư ngay từ đầu “Lời Tựa” đã nói đến danh xưng này : “ Chúng ta đã được thấy vinh quang của Người, vinh quang như là của Con Một từ Cha, đầy ân sủng và sự thật”(1,14). Từ vinh quang của “Con Một”, Chúng ta đã được thấy vinh quang của Người. Cũng trong “Lời Tựa”, tác giả cũng cho biết rằng “chính Con Một, là Thiên Chúa, Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, Đấng đó đã làm mạc khải cho chúng ta” (1,18). “Con Một” là Đấng mạc khải Chúa Cha cho nhân loại. Trong đoạn Tin Mừng này danh xưng “Con Một” được dùng hai lần (3,16.18). Người là món quà do Cha ban tặng và là đấng mà danh của Người phải được tin vào. Bên cạnh đó danh xưng “Người Con” với mạo từ xác định, được dùng như một sự rút gọn của danh xưng “Con Một” (1,17). C. Barrett cho rằng danh xưng này nhấn mạnh tính duy nhất trong tương quan Người Con đối với Người Cha.[9]
    • Phải (được treo lên) (δεῖ): Động từ “δέω” là một động từ không ngôi. Trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “cần thiết”, “phải” diễn tả “sự bắt buộc” của hành động.[10] Tin Mừng Gioan sử dụng 9 lần động từ này, trong đó nhiều lần liên kết với sứ vụ bắt buộc của Đức Giê-su. Đức Giê-su phải “làm công việc của Đấng đã sai Người khi con ban ngày” (9,4). Đức Giê-su phải mang những con chiên khác không thuộc đàn này về (10,16). Theo lời Thánh Kinh, Người “phải chỗi dậy từ cõi chết” (20,9). Động từ nay được sử dụng 2 lần trong đoạn này. Lần thứ nhất là khi Đức Giê-su nói với Ni-cô-đê-mô: “Ông phải sinh được ra một lần nữa’ (3,7). Lần thứ hai, Đức Giê-su nói về chính mình: “Con Người phải được giương cao” (3,17; Cf. 12,34).
    • Được giương cao, được nâng lên”: Động từ này đi kèm với động từ không ngôi “δεῖ” diễn tả một sứ vụ bắt buộc của Đức Giê-su vì ơn cứu độ. Câu văn được cấu trúc bởi hai mệnh đề song song với nhau. Rất nhiều yếu tố song song được đặt bên cạnh nhau: Mô-sê// Chúa Cha, tác nhân của động từ bị động; Con rắn đồng//Đức Giê-su; Nâng lên//được nâng lên. Hình ảnh Mô-sê treo con rắn đồng trong sa mạc là hình ảnh báo trước cho việc “Con Người phải được treo lên”. Động từ “ὑψόω” (nâng lên) là một động từ mang nhãn hiệu Gioan. Tác giả dùng rất nhiều lần động từ này để diễn tả mầu nhiệm “nâng lên” của Đức Giê-su. Ngoài hai lần trong đoạn Tin Mừng này, còn nhiều lần khác nữa Đức Giê-su tiền báo về “sự nâng lên này”. Khi Người Do Thái nâng Đức Giê-su lên, họ sẽ nhận ra là Người “hằng hữu” (ἐγώ εἰμι) (Ga 8,28). Đức Giê-su hứa rằng, khi Người được “nâng lên” khỏi mặt đất Người sẽ “kéo mọi người lên” với Người (12,32.34). Động từ này rõ ràng ám chỉ đến sự chết, mầu nhiệm tử nạn nhưng cũng ám chỉ đến vinh quang Phục Sinh. Nếu “nâng lên” chỉ nói đến sự chết, thì Đức Giê-su không kéo mọi người lên theo làm gì. Hơn nữa, làm sao họ nhận ra Người hằng hữu được nếu “nâng lên” chỉ là tử nạn. Khác với Tin Mừng Mác-cô, sự đau khổ và sự vinh quang phân biệt theo thứ tự thời gian: tử nạn – sau ba ngày sẽ sống lại (Mc 8,31). Gioan dùng một động từ để diễn tả cả hai. “Nâng lên” vừa diễn tả tử nạn và vừa cho thấy vinh quang.[11] Đức Giê-su bị treo lên là giá chuộc cho tội lỗi nhân loại. Người không tìm vinh quang cho mình những là ơn cứu độ cho nhân loại.
    • Sự sống đời đời” – Tin: Mục đích của việc “được nâng lên” là để ai tin sẽ “có được sự sống đời đời.” Tin Mừng Nhất Lãm đồng loạt kể về một người đàn ông (người bạn trẻ) có nhiều của cải khao khát đi tìm “sự sống đời đời” (Mt 19,16-22; Mc 10,17-22; Lc 18,18-23). Dù rằng anh ta đã giữ các điều răn, nhưng anh ta lại không dám “bán tài sản” của mình “đem cho người nghèo” rồi “theo Đức Giê-su”. Ngược lại, Đức Giê-su hứa “sự sống vĩnh cửu” cho những ai bỏ “nhà cửa, anh chị em, con cái hay ruộng đất vì danh Người” (Mt 19,29; Mc 10,30; Lc 18,30). Theo tác giả Tin Mừng Nhất Lãm, sự sống đời đời là gia nghiệp của những người bỏ mọi sự mà theo Đức Giê-su. Riêng Mát-thêu, “sự sống đời đời” là phần thưởng dành cho “người công chính” (Mt 25,46). Luca có một dụ ngôn nổi tiếng liên quan đến “sự sống đời đời”. Dụ ngôn “Người Samari nhân hậu” (Lc 10, 29-37) là một chỉ dẫn nền tảng cho một “nhà thông luật” muốn chất vấn Đức Giê-su về cách thức để đạt đến “sự sống đời đời.” Và xem ra, theo Luca, những hành vi tử tế dành cho bất cứ “người thân cận đau khổ nào” người ta gặp trên mọi nẻo đường của cuộc sống sẽ mang lại cho người ta “sự sống đời đời”. Tin Mừng thứ tư không đề cập đến một ai tìm cách để đạt đến sự sống đời đời. Nhưng có lẽ đó là niềm khao khát chung của cả cộng đoàn Gioan. Chính vì thế, Tin Mừng thứ tư là Tin Mừng nói nhiều nhất về “sự sống đời đời”. Tần xuất của “sự sống đời đời” trong Tin Mừng Gioan nhiều áp đảo so với Tin Mừng Nhất Lãm (Ga: 17 lần, Mt: 3 lần; Mc: 2 lần; Lc: 3 lần). Điều này chứng tỏ rằng Gioan rất chú trọng đến chủ đề này. Khác với Tin Mừng Nhất Lãm, theo Tin Mừng Gioan, muốn có “sự sống đời đời” thì phải tin vào Con Người (3,15-16; 5,24; 6,40.47; 17,3). Sự nối kết giữa niềm tin vào Đức Giê-su và “sự sống đời đời” là không thể chối cãi trong Tin Mừng thứ tư. Ngoài ra, “ai ăn thịt và uống máu” Đức Giê-su cũng sẽ có “sự sống đời đời” (6,54). Tin vào Đức Giê-su và “có sự sống đời đời” cũng là mục đích của toàn Tin Mừng Gioan (Ga 20,31). Bối cảnh Cựu Ước của “con rắn đồng” như sau. Dân Ít-ra-en ngày xưa bị phạt vì chống lại Chúa và Mô-sê. Đức Chúa gửi rắn độc đến cắn dân chúng và nhiều người đã chết. Mô-sê theo lệnh Đức Chúa làm một con rắn độc treo lên một cái cọc và bất cứ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn này thì được sống (Ds 21,4-9). Con Người cũng sẽ được treo lên, và không phải bất cứ ai nhìn lên, nhưng bất cứ ai tin vào Người thì được “sống đời đời”. Nọc đọc của con rắn trong nhân loại chính là tội lỗi, làm cho con người phải chết. Tuy nhiên, nhờ ơn cứu chuộc của Đức Giê-su, các tín hữu được “sống đời đời”.
    • Thiên Chúa yêu thế gian – Ban tặng con một”: Ga 3,16 như là lý giải thêm cho mầu nhiệm trung tâm Tử Nạn- Phục Sinh ở 3,14-15. Mục đích “Tin – được sống muôn đời” một lần nữa được lặp lại. Hành động “Con Người được nâng lên” diễn tả một động lực, cũng như một kế hoạch của Thiên Chúa. Động lực thúc đẩy hành động của Thiên Chúa là tình yêu vô bờ bến, yêu ở mức độ cao nhất. Cấu trúc “οὕτως … ὥστε” (nhiều … đến nỗi) dùng để nhấn mạnh thực tại của hiệu quả.[12] Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban tặng Con Một. Tính từ “duy nhất”, hay “chỉ có một” (τὸν μονογενῆ) nhằm nhấn mạnh hành động trao ban vì yêu của Thiên Chúa. Ban “Con Một” nghĩa là ban điều quý giá nhất, duy nhất, không còn gì để ban hơn nữa. R. Brown ghi chú thêm về cách dùng thì của động từ “yêu”. Động từ yêu được dùng ở thì aorist (đã yêu) ngụ ý một tình yêu cao nhất. Trong thư 1 Ga, tác giả cũng lặp lại ý tưởng tương tự: “bằng cách này tình yêu Thiên Chúa được tỏ bày giữa chúng ta: Thiên Chúa đã sai Con Một của Người vào thế gian để chúng ta có thể có sự sống qua Người.[13] Sự trao ban Con Một rõ ràng bao hàm cả nhập thể và cái chết đau thương. Toàn thể sứ vụ của Người Con được nói đến. G. Murray-Beasley cho rằng đây là tóm tắt nền tảng của toàn thông điệp của Tin Mừng và nên được xem như là phong nền trên đó phần còn lại của Tin Mựng được vẽ lên.[14]
    • “Thế gian (τὸν κόσμον): Danh từ thế gian xuất hiện 4 lần trong đoạn văn này, một tần xuất khá lớn (3,16.17a.b.c.19). Riêng câu 17, hạn từ “thế gian” xuất hiện 3 lần. “Thế gian” là đối tượng yêu thương của Thiên Chúa. “Thế gian” là nơi Người Con được sai đến. “Thế gian” cũng là nơi ánh sáng đi vào. Rõ ràng đây cũng là một cách diễn tả: Đức Giê-su đi vào thế gian bởi vì Người là “ánh sáng thế gian” (Ga 8,12; 9,15). Hơn nữa, “thế gian” không phải là đối tượng để lên án nhưng đề cứu độ. “Thế gian” đã xuất hiện rất sớm, ngay trong “Lời Tựa”, cũng liên quan đến ánh sáng: “ánh sáng, chiếu soi cho mọi người, đã đến “thế gian”. Hạn từ này cũng được dùng với mật độ dày đặc trong Tin Mừng thứ tư. Ngoài 5 lần trong đoạn này, còn hơn 60 lần nữa được dùng trải dài từ chương 1 đến chương Hạn từ này được dùng với nhiều nghĩa khác nhau. Trong đoạn này, thuật ngữ này đã có hai tầng nghĩa khác nhau. (1) thế gian là không gian (vũ trụ): Thiên Chúa sai Người con vào trong “thế gian” (3,17a) và ánh sáng “đi vào thế gian” (3,19). (2) “Thế gian” bao gồm những con người trong thế gian (nhân loại), là đối tượng để yêu thương và cứu độ (3,16.17b.c.). Ngoài ra, nó còn mang nghĩa khác như: “thế gian” đối nghịch với Đức Giê-su, nó có “thủ lãnh của thế gian” (12,31; 14,30; 16,11).[15]
    • Bản án: Yêu bóng tốighét ánh sáng”: Thuật ngữ “bản án” (κρίσις) này được dùng theo nghĩa kép: phân chia và kết án. Đấng Cứu Độ đến mang theo “ánh sáng” của ơn cứu độ. Nhưng trước “ánh sáng” ấy con người tự phân chia. Họ hoặc là tiến về nó hoạc là chạy xa nó.[16] Đối lại với tình yêu của Thiên Chúa dành cho “thế gian” là “sự thù ghét” của những người làm điều xấu trong thế gian đối với “ánh sáng”. Họ yêu chuộng bóng tối, bằng chứng là “những việc họ làm đều xấu xa”. Bản án không do Đức Giê-su kết cho bằng sự chọn lựa của mỗi người. Chính sự chọ lựa của họ sẽ dẫn đến những bản án kèm theo. Hình ảnh đối nghịch giữa “ánh sáng” và “bóng tối” cũng đã được tác giả nhắc đến trong “Lời Tựa”: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh” (1,5). Sứ chiến thắng áp đảo của ánh sáng là rõ ràng ngay từ đầu. Tuy nhiên, vấn đề là có nhiều “kẻ làm điều xấu” vẫn yêu “bóng tối” và chọn “bóng tối” hơn là “ánh sáng”. Sở dĩ như thế gian bị tách xa Thiên Chúa là bởi vì nó chối từ một cách cứng đầu sự trao ban hòa giải mang tính tự hiến của Chúa.[17]

Ngược lại với “những kẻ làm điều xấu” là “những người thi hành sự thật”. Những người này sẽ đi về, tiến lại gần ánh sáng. Theo C. Barrett, di về phía ánh sáng là trở về nguồn gốc của mình.[18] Mục đích của họ là để những công việc của họ được tỏ lộ. Vì những công việc này được làm trong Chúa. Động từ “được phơi bày” lại được dùng trong 16,8 để nói về hoạt động của Đấng Pa-rác-lê (Thần Khí), nghĩa là một sự tỏ lộ có tính thuyết phục.[19] Trong Tin Mừng thứ tư, “sự thật” có một mối liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa. Nó là một trong ba đặc tính của Đức Giê-su: “Ta là đường, là sự thật, và là sự sống” (14,6). Đúng hơn phải nói rằng, chúng không chỉ là những đặc tính nhưng là chính Chúa. Đức Giê-su là “sự thật”, và bất cứ ai đến với Chúa Cha phải qua Người. Những ai thờ phượng Chúa cũng phải “thờ phượng trong tinh thần và sự thật” (ἐν πνεύματι καὶ ἀληθείᾳ). Thần Khí cũng được gọi là Thần Khí sự thật (Ga 14,17; 15,26; 16,13). “Sự thật” cũng liên quan trực tiếp đến ơn cứu độ của con người: “Sự thật sẽ giải thoát anh chị em” (8,32). Làm chứng cho “chân lý” cũng là mục đích của Đức Giê-su đến thế gian (18,37).  Chỉ có trong Tin Mừng thứ tư độc giả mới nghe được cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su và Phi-la-tô liên quan đến sự thật. Cuộc thẩm vấn Đức Giê-su kết thúc bằng thắc mắc của Phi-la-tô: “Sự thật là gì” (18,38). Thi hành, “làm sự thật” là hành động rất quan trọng đối với những người tin. Nó giúp người ta tự tin đi về phía ánh sáng và được ơn giải thoát.

  • “Sai đến: Đây là động từ diễn tả sứ vụ được sai đi. Tin Mừng Nhất Lãm nói đến việc Gioan Tẩy Giả được sai đến (Mc 1,2; Lc 7,27; Mt 11,10); rồi Đức Giê-su sai 12 Tông Đồ đi rao giảng (Mt 10,5.16; Mc 6,7; Lc 10,3); Con Người sai các thiên sứ của Người tập họp những người được chọn (Mc 13,27; Mt 24,31). Tuy nhiên, chỉ có trong Tin Mừng thứ tư, ý tưởng Chúa Cha sai Chúa Con được mạc khải cách rõ ràng. Khởi đầu đoạn Tin Mừng này, Đức Giê-su cho biết nguồn gốc “từ trời cao” của Con Người. Tiếp theo sau đó Người mạc khải về mầu nhiệm “được nâng lên”. Nhưng trước khi được “nâng lên” thì người phải được “sai đến”. Và Đấng có thể sai (gửi) Người Con không ai khác là chính Thiên Chúa. Động lực của “sự sai đến này” rõ ràng là vì “Thiên Chúa yêu thế gian” quá đỗi. Biểu hiện đẹp nhất, tốt nhất của tình yêu là sự trao ban. Mức độ tình yêu được cân đo bằng giá trị món quà. Người Con Duy Nhất rõ ràng là món qua “cân” (chấp) tất cả các món quá trên thế giới. “Sai đi” là hành động Thiên Chúa làm với Người Con nhưng với nhân loại, nó là một sự trao ban (trao tặng :3,16//3,17: gửi, sai). Và mục đích của “việc sai Chúa Con đến” là vì ơn cứu độ cho “thế gian”. Mệnh đề mục đích để “thế gian được cứu” ở 3,17 rõ ràng song song với mệnh đề “bất cứ ai tin” thì có “sự sống đời đời” ở 3,15 và 3,16 (thế gian// những người tin; Được cứu độ// có sự sống đời đời). Đó là một kết cấu chặt chẽ từ động lực, hành động cho đến mục đích của sứ vụ của Đức Giê-su. Mục tiêu cuối cùng là nhân loại được cứu độ, động nghĩa với việc có sự sống đời.
  • Kết án – không tin: Tin Mừng thứ tư nói đến một bản án tức thời, chứ không phải đời sau hay thời cánh chung: “Kẻ không tin đã bị kết án rồi”. J. Moloney gọi đây là một thần học của sự tự kết án, mà Tin Mừng thứ tư đóng góp cho tư tưởng Ki-tô giáo. Người ta không cần phải chờ đến thời sau hết khi Con Người trở lại xét xử như trong Mt 25,31-46. Người ta xét xử chính mình qua việc chấp nhận hay từ chối mạc khải của Chúa trong và qua Đức Giê-su và qua những hành động tốt, xấu đến từ quyết định chọn lựa của mình.[20] Sự tức thời của bản án đến ngay sau hành vi chọn lựa tin hoặc không tin của một người. Tin thì không bị kết án, không tin thì bị kết án. Bản án này cho cá nhân chọn lựa chứ không do Thiên Chúa công bố. Và biểu hiện của bản án này có lẽ là sự xa rời Thiên Chúa, xa rời sự thật và làm những sự xấu xa, dẫn đến đau khổ, bất an và chết.

Bình luận

Tiếp theo chủ đề cuộc tử nạn – Phục Sinh, niềm tin và ơn cứu độ của Chúa Nhật III Mùa Chay năm C. Chúa Nhật IV Mùa Chay, năm C, lại tiếp tục cho các tín hữu hiểu rõ hơn Mầu Nhiệm Tử Nạn – Phục Sinh, niềm tin và sự sống đời đời này. Đoạn Tin Mừng 3,13-21 được trích ra từ cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su và ông Ni-cô-đê-mô, một trí thức Do Thái, “bậc thầy trong dân Ít-ra-el” (3,10). Câu chuyện bắt đầu từ lời mời gọi “tái sinh bởi nước và Thần Khí” (3,5) hay “sinh ra một lần nữa bởi ơn trên” (3,6). Chuyện Đức Giê-su muốn nói với ông Ni-cô-đê-mô là chuyện trên trời dưới đất, chứ không chỉ là chuyện dưới đất. Đức Giê-su bắt đầu chuyện “trên trời dưới đất bằng” cách dùng danh xưng “Con trai của loài người” (Con Người). Đây là một danh xưng hết sức nhân loại. “Con Người” là thành viên của trái đất. Thế nhưng “Con Người” này lại “từ trời xuống” rồi “lại lên trời”. Ngay mạc khải này của Đức Giê-su đã cho thấy sự giao thoa giữa trời và đất. Chuyện trên trời nối kết với chuyện dưới đất. Biên giới giữa trời cao và đất thấp đã được hủy bỏ. “Con Người” rất nhân loại bởi Người mặc lại xác pham và “cắm lều giữa chúng ta” (1,14), nhưng Người lại là Thiên Chúa hiện hữu tự muôn ngàn đời, đến từ trời cao. “Con Người” này làm người để rồi lại được “nâng lên”, như Mô-sê đã treo con rắn đồng trong Sa-mạc. Con rắn đồng đem lại sự sống cho những người bị rắn lửa cắn. “Con Người” mang lại sự sống đời đời cho những người tin vào Người. Tự con rắn không mang lại sự sống, nhưng quyền năng Thiên Chúa, đấng ra lệnh cho Mô-sê làm con rắn ấy và treo lên, mới mang lại sự sống. Ngược lại chính Đức Giê-su là nguồn sự sống. Người có thể ban sự sống đời đời cho ai tin vào Người. Sự sống đời đời do Đức Giê-su ban tặng khác biệt so với sự sống tạm thời được ban qua dấu chỉ con rắn treo. Sự giương cao con rắn cũng không so sánh với sự được “nâng cao” của “Con Người”. Bởi sự giương cao con rắn chỉ đơn thuần là “treo lên”, còn sự “nâng cao” Con Người bao hàm cả sự chết và vinh quang siêu thăng. Hơn nữa, sự chết của “Con Người” cũng bao hàm một sự cứu chuộc, đền thay cho mọi người. “Con Người” này sau đó được tôn vinh: “giờ đã đến để Con Người được tôn vinh” (12,23); Khi Giu-đa đi ra ngoài, Đức Giê-su nói: “Giờ đây Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người” (13,31). Mầu nhiệm khổ nạn-Phục Sinh vinh quang ấy, lại đến từ động lực từ trời cao. Đó là tình yêu cao vời của Thiên Chúa dành cho “thế gian”. “Con Người” ấy thì ra chính là “Người Con duy nhất” của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã ban tặng Con Một cho thế gian, để thế gian nhờ Người mà được cứu thoát. Ai tin vào Người (Con Người) thì được “sự sống đời đời” (3,15) // ai tin vào Người (Con Một) có thể có “sự sống đời đời” (3,16)// thế gian được cứu thoát nhờ Người (Con Một). Con Người song song (//) với Con Một và “sự sống đời đời” (2 lần)// được cứu thoát (3,16c). Cách thức Thiên Chúa trao tặng Người Con duy nhất cho nhân loại là “sai, gửi” Người xuống thế gian. Mục đích của Người là để “cứu” thế gian chứ không phải để lên án nó. Thế nhưng, sự xuất hiện của Người, cùng lúc cũng xuất hiện “bản tự kết án”. Thế gian tự phân chia, tự chọn lựa, và dẫn đến bản án cho riêng mình. Những người tin vào “Người Con” sẽ không bị kết án. Những người không tin mang lấy bản án cho mình. Bản án đó là: “rằng ánh sáng đã xuất hiện trong thế gian và những con người (người ta) đã yêu bóng tối hơn là ánh sáng vì những việc làm của họ xấu xa”. Con Người, Con Một, Ánh Sáng là một. Đức Giê-su chính là “ánh sáng thế gian” (Ga 8,12; 9,15) và là “Con Người” trong thế gian, thế nhưng, Người cũng là “Con Một”, là Thiên Chúa, Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha (1,18). Ánh sáng đến thế gian, chiếu soi vào bóng tối, và dĩ nhiên bóng tối không bao giờ vượt được ánh sáng (1,5). Chỉ có nơi nào không có ánh sáng thì bóng tối mới xuất hiện. Ánh sáng này không phải là ánh sáng vật lý của mặt trời, mặt trăng hay tinh tú nào, nhưng là một ngôi vị. Chọn lựa đi về phía ánh sáng, là chọn lựa, Con Người, Con Một, Thiên Chúa làm người. Những người không chọn lựa “ánh sáng” thì tự nhiên có bóng tối nơi mình. Biểu hiện của những người không chọn lựa ánh sáng là “làm những việc xấu xa”. Người làm những việc xấu xa thì ưa chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vị họ luôn muốn che dấu những việc xấu của mình. Ngược lại những người chọn lựa ánh sáng là những người làm “sự thật”. Những việc sự thật thì cần phải được tỏ lộ, một sự tỏ lộ thuyết phục bởi Thánh Thần vì những việc sự thật được làm trong Chúa. Tuy nhiên, vẫn còn niềm hy vọng cho những người có bản “tự kết án này”. Đây chưa phải là bản án chung cuộc đời đời. Bởi lẽ, một khi những người không tin vào Con Người, Con Một, Thiên Chúa trở thành những người tin vào Người; những người “ghét ánh sáng” trở thành những người “yêu chuộng ánh sáng”; Những người làm “những việc xấu xa” trở nên những người “làm sự thật, chân lý”, thì gió sẽ đổi chiều, và cơ hội có “sự sống đời đời” của họ vẫn còn, cơ hội “được cứu độ” nhờ “Con Một” vẫn còn. Nguyện vọng và sứ vụ của “Đấng đến từ trời cao” (Con Người) là được “nâng lên” khỏi mặt đất và kéo “mọi người” lên cùng Người (πάντας ἑλκύσω πρὸς ἐμαυτόν). “Mọi người”, “tất cả” (πάντας) chứ không phải một số người.

Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD

Chú thích

[1] R.E. Brown, The Gospel according to John (I–XII). Introduction, translation, and notes (AYB; New Haven – London 2008) XXIX, cxxxviii.

[2] R.E. Brown, The Gospel according to John (I–XII) XXIX, 93.

[3] R.E. Brown, The Gospel according to John (I–XII) XXIX, 132.

[4] G.R. Beasley-Murray, John (WBC; Dallas 1999) XXXVI, 50.

[5] Giáo Hoàng Học Viện Pio X, Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh (Tôn Giáo 2016) “Con Người”, 295-296.

[6] D.L. Bock, Dictionary of Jesus and the Gospels (ed. J.B. Green) (Downers Grove 2013) “Son of Man”, 894.

[7] Giáo Hoàng Học Viện Pio X, Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh, 299

[8] C.K. Barrett, The Gospel According to St. John. An Introduction with Commentary and Notes on Greek Text (Philadelphia 1978) 212.

[9] C.K. Barrett, The Gospel According to St. John, 216.

[10] F.W. Danker (ed.), A Greek-English lexicon of the New Testament and other early Christian literature (Chicago 32000) 214.

[11] C.K. Barrett, The Gospel According to St. John, 214.

[12] M. Zerwick – M. Grosvenor, A grammatical analysis of the Greek New Testament (Rome 1974) 292.

[13] R.E. Brown, The Gospel according to John (I–XII) XXIX, 133.

[14] G.R. Beasley-Murray, John (WBC; Dallas 1999) XXXVI, 51.

[15] Xem thêm J.Painter, Dictionary of Jesus and the Gospels, “The World”, 1013-1018.

[16] G.R. Beasley-Murray, John (WBC; Dallas 1999) XXXVI, 51.

[17] C. S. Keener, The Gospel of John. A Commentary (Grand Rapids 2003) I, 572.

[18] C.K. Barrett, The Gospel According to St. John, 218.

[19] C.K. Barrett, The Gospel According to St. John, 217.

[20] F.J. Moloney, The Gospel of John (SP; Collegeville 2005) IV, 102.

Bài trướcLỜI SỐNG (Thứ Sáu, Tuần 3 MC)
Bài tiếp theoLỜI SỐNG (Thứ Bảy tuần 3 Mùa Chay)