Lời Chúa + Bài giảng Lễ Đức Maria – Mẹ Thiên Chúa (Ngày 1 Tháng 1)

0
836

Bài Ðọc I: Ds 6, 22-27

“Họ sẽ kêu cầu danh Ta trên con cái Israel và Ta sẽ chúc lành cho chúng”.

Trích sách Dân Số.

Chúa phán cùng Môsê rằng: “Hãy nói với Aaron và con cái nó rằng: Các ngươi hãy chúc lành cho con cái Israel; hãy nói với chúng thế này: “Xin Chúa chúc lành cho con, và gìn giữ con. Xin Chúa tỏ nhan thánh Chúa cho con, và thương xót con. Xin Chúa ghé mặt lại cùng con, và ban bằng yên cho con”. Họ sẽ kêu cầu danh Ta trên con cái Israel, và Ta sẽ chúc lành cho chúng”.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 66, 2-3. 5. 6 và 8

Ðáp: Xin Thiên Chúa xót thương và ban phúc lành cho chúng con (c. 2a).

Xướng: 1) Xin Thiên Chúa xót thương và ban phúc lành cho chúng con; xin chiếu giãi trên chúng con ánh sáng tôn nhan Chúa, để trên địa cầu người ta nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân thiên hạ được biết rõ ơn Ngài cứu độ. – Ðáp.

2) Các dân tộc hãy vui mừng hoan hỉ, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu. – Ðáp.

3) Chư dân, hãy ca tụng Ngài; thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài! Xin Thiên Chúa ban phúc lành cho chúng con, và cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài. – Ðáp.

Bài Ðọc II: Gl 4, 4-7

“Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, khi đã tới lúc thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ, sinh dưới chế độ Luật, để cứu chuộc những người ở dưới chế độ Luật, hầu cho chúng ta được nhận làm dưỡng tử. Sở dĩ vì anh em được làm con, Thiên Chúa đã sai Thần Trí của Con Ngài vào tâm hồn chúng ta, kêu lên rằng: “Abba!”, nghĩa là “Lạy Cha!” Thế nên, bạn không còn phải là tôi tớ, nhưng là con; mà nếu là con, tất bạn cũng là người thừa kế, nhờ ơn Thiên Chúa.

Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Dt 1, 1-2

Alleluia, alleluia! – Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri mà phán dạy cha ông, nhưng đến thời sau hết, tức là trong những ngày này, Người đã phán dạy chúng ta nơi người Con. – Alleluia.

Phúc Âm: Lc 2, 16-21

“Họ đã gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi… và tám ngày sau người ta gọi tên Người là Giêsu”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, các mục tử ra đi vội vã đến thành Bêlem, và gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ hiểu ngay lời đã báo về hài nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ.

Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.

Khi đã đủ tám ngày, lúc phải cắt bì cho con trẻ, thì người ta gọi tên Người là Giêsu, tên mà thiên thần đã gọi trước khi con trẻ được đầu thai trong lòng mẹ.

Ðó là lời Chúa.

Bài giảng chủ đề:

ĐỨC MARIA, MẸ BÌNH AN

Vinh danh Thiên Chúa trên trời,

Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14).

 

Lm. Gioan Baotixita Nguyễn Hữu Duy, SVD

Lời của muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa khi Hài Nhi Giêsu chào đời cho thấy ý định của Thiên Chúa muốn trao ban bình an cho nhân loại qua sự chào đời của trẻ Giêsu. Bình an cho loài người chính là vinh quang của Thiên Chúa; hay nói cách khác, Thiên Chúa được tôn vinh khi con người sống trong bình an.

Trong công trình lớn lao của Thiên Chúa, Mẹ Maria âm thầm hiện diện và cộng tác để ý định của Thiên Chúa được thực hiện, nhờ vậy mà Giáo Hội tuyên phong Mẹ là “Mẹ Thiên Chúa”. Trong muôn vàn công phúc của Mẹ, hôm nay chúng ta ca tụng Mẹ là “Mẹ Bình An”.

  1. Bình an là phúc lành của Thiên Chúa

Trong tiếng Hy Lạp, thuật ngữ “bình an” vừa có nghĩa là “hoà bình, hoà thuận, yên bình” (x. Mt 10,34; Lc 11,21; Cv 9,31; Rm 3,17), vừa có nghĩa là “hạnh phúc, mạnh khoẻ” (x. Mc 5,34; Rm 1,7; 1 Cr 1,3); đồng thời “hoà bình” theo Kitô Giáo còn có nghĩa là “thời của ơn cứu độ” (x. Lc 2,14; Ga 16,33; Rm 5,1; Ep 6,5). Tuy vậy, dù hiểu theo nghĩa nào đi nữa, thì “hoà bình” không thể là kết quả của sự cố gắng tìm kiếm của con người, mà là ơn phúc đến từ Thiên Chúa.

Quả vậy, trong bài đọc thứ nhất trích sách Dân Số, Thiên Chúa truyền cho ông Môsê căn dặn ông Aharon và các con, tức những người thuộc dòng tộc tư tế, dùng công thức chúc lành này để xin Chúa ban phúc cho dân: “Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em” (Ds 6,24-26). Thiên Chúa là nguồn gốc mọi phúc lành, và Ngài hằng chúc phúc, trong đó có phúc bình an cho những ai biết tin tưởng kêu cầu Ngài. Được Thiên Chúa giữ gìn che chở, được Ngài đoái nhìn đến và dủ lòng thương chính là bình an cho con người.

Tuy nhiên, chắc hẳn Thiên Chúa không mong muốn con người thụ động chờ đợi ơn bình an như một thứ ân huệ ban phát tuỳ lòng hảo tâm, mà bình an phải là kết quả cuối cùng của một tiến trình cố gắng của con người đi về phía Chúa là nguồn bình an. Bình an không đơn giản chỉ là những lúc người ta cảm thấy được yên bình, hoà thuận hay hạnh phúc, mạnh khoẻ, mà là lúc người ta cảm nhận được tình thương của Thiên Chúa, thể hiện cách sống động và cụ thể nơi Đức Giêsu, Đấng đã nhờ thập giá mà hoá giải mọi nỗi thù ghét, ngăn cách, chia rẽ, bất hoà và trở nên nguồn bình an cho mọi người (x. Ep 2,14-18). Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa đã sai Đấng Cứu Độ là Đức Giêsu đến viếng thăm con người, dẫn họ ra khỏi bóng tối tăm của tội lỗi, sự chết và “dẫn vào đường nẻo bình an” (x. Lc 1,77-79). Bình an vì được Thiên Chúa cứu độ mới thật sự là bình an đích thật và vững bền.

  1. Mẹ Maria là hiện thân của bình an giữa lòng nhân loại

Bài Tin Mừng tường thuật quang cảnh của đồng hoang nơi những người chăn chiên tìm đến và gặp thấy “bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2,16). Trái ngược với cảnh tưng bừng, vui vẻ, sáng loà trước đó khi sứ thần xuất hiện, loan Tin Mừng trọng đại cho những người chăn chiên (x. Lc 2,8-14), khung cảnh lúc này thật tĩnh mịch, đơn sơ và nghèo hèn của đôi vợ chồng trẻ sinh con và đặt trong máng cỏ. Giữa bao biến động xảy đến cho Thánh Gia, Mẹ Maria vẫn bình lặng bên Hài Nhi bé nhỏ với tất cả tình thương yêu. Mẹ thật là hiện thân của yêu thương và bình an giữa lòng nhân loại ồn ào, bon chen, tranh giành và bất an.

Quả vậy, giữa tất cả những thăng trầm của chuyến đi Bê Lem nhiều sóng gió để rồi sinh con giữa đồng hoang, Mẹ vẫn không hề thốt ra một lời than vãn. Mẹ sống bình an giữa muôn vàn khó khăn. Mẹ không có được sự an toàn, bình yên, không có sự bảo đảm về vệ sinh, sức khoẻ bình thường của một người phụ nữ sinh con, nhưng lòng Mẹ vẫn an bình đến lạ thường. Ở bên Mẹ có thánh Giuse, trong vòng tay Mẹ có Hài Nhi Giêsu và quan trọng hơn, ở trên Mẹ có ân sủng của Thiên Chúa, nên trong lòng Mẹ có bình an.

Hơn nữa, giữa sự ồn ào và hối hả của các mục đồng đến thăm và loan tin, trước sự ngạc nhiên của những người nghe biết sự việc (x. Lc 2,16-18), Đức Maria chỉ “ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19). Phản ứng của Mẹ thật bình thản và an bình. Mẹ không kêu trách Chúa vì sự thiếu thốn, cũng không tỏ ra vui mừng trước sự kinh ngạc của người ta; Mẹ chỉ lặng thầm suy nghĩ và chắc hẳn cả cầu nguyện trong sự tín thác cho Thiên Chúa. Sự thinh lặng trong cầu nguyện mang lại cho lòng Mẹ sự an bình nội tâm, dẫu Mẹ đã, đang và sẽ tiếp tục đối diện với bao thử thách và khó khăn.

Sự an bình trong lòng Mẹ không phải vì Mẹ được bảo đảm an toàn, không phát xuất từ sự đầy đủ tiện nghi, không phải vì mọi sự đều theo đúng như mong muốn của mình, mà vì Mẹ tin rằng Mẹ được Thiên Chúa yêu thương, chúc phúc và chở che. Sự bình an của Mẹ không đến từ sự sắp đặt của con người, không bị lệ thuộc vào hoàn cảnh và không bị chi phối bởi điều kiện thể lý hay vật chất. Tâm Mẹ an bình vì trong tâm hồn Mẹ luôn có Đấng là nguồn của sự bình an.

3/ Bình an cho tâm hồn con người và thế giới hôm nay

Tục ngữ Latinh có câu: “Nếu bạn muốn hòa bình, hãy chuẩn bị cho chiến tranh”. Thế giới gần như chưa bao giờ hết chiến tranh; các cuộc xung đột đây đó vẫn tiếp diễn hàng ngày, hàng giờ trên hành tinh này. Có những cuộc xung đột để lại những hậu quả khốc liệt có thể nhìn thấy được, nhưng cũng có những cuộc xung đột để lại những đớn đau âm ỉ mà ít ai biết tới. Phải chăng người ta đang thể hiện mong muốn hoà bình bằng cách chuẩn bị cho chiến tranh? Bao giờ thế giới mới có được một nền hoà bình đích thực?

Hơn nữa, giữa thế giới càng phát triển nhanh chóng với những tiến bộ về nhiều mặt, con người càng phải sống nhanh, sống vội vàng để chạy đua với thời gian nên chịu nhiều áp lực do công việc, do ganh đua để có một cuộc sống tốt đẹp hơn, sung túc hơn. Vì thế, con người cũng dễ rơi vào vòng xoáy của những cuộc chạy đua và làm cho cuộc sống trở nên căng thẳng; người ta dễ cáu gắt và giận giữ hơn. Hơn lúc nào hết, người ta muốn tìm sự an bình, thư thái bằng các phương pháp như thiền, yoga, thể dục … nhưng liệu những cách thức đó có mang lại cho con người sự an bình thật sự?

Hôm nay là ngày Giáo Hội dành riêng để cầu nguyện cho hoà bình thế giới. Chúng ta tự hỏi đâu là những giá trị Kitô giáo có thể góp phần làm cho thế giới hoà bình? Và mỗi người Kitô hữu có thể làm gì để lòng người được bình an?

Trong thông điệp “Hòa bình dưới thế”, thánh Giáo Hoàng Gioan 23 cho rằng “ý nghĩa và lòng yêu mến hòa bình dựa trên sự thật, công lý, tự do và tình thương”. Thật vậy, bao lâu xã hội con người vẫn bị sự gian dối chi phối, bao lâu lòng người còn dung dưỡng cho sự dối gian, bao lâu xã hội vẫn còn những con người bị loại trừ và bị đối xử bất công, bao lâu sự tự do cơ bản của con người bị tước đoạt cách bất chính, và trên hết, bao lâu xã hội không đặt nền tảng trên tình thương và lòng nhân ái, thì bấy lâu con người vẫn chưa thể có được một nền hoà bình thật sự.

Tình thương và lòng nhân ái theo tinh thần Tin Mừng thôi thúc người ta sống tinh thần bất bạo động. Quả vậy, sứ điệp ngày thế giới hoà bình của ĐGH Phanxicô năm 2017, số 3, khẳng định rằng tinh thần bất bạo động của Chúa Giêsu chính là nền tảng cho nền hoà bình thật sự: “Ngài rao giảng không biết mệt mỏi tình thương vô điều kiện của Thiên Chúa, Đấng đón tiếp và tha thứ, và dạy các môn đệ hãy yêu thương kẻ thù (x. Mt 5,44) và giơ má bên kia (x. Mt 5,39). Khi ngăn cản những kẻ cáo buộc người phụ nữ ngoại tình ném đá bà (x. Ga 8,1-11) và trong đêm trước khi chịu chết, Ngài đã bảo Phêrô hãy xỏ gươm vào vỏ (x. Mt 26,52), Chúa Giêsu vạch ra con đường bất bạo động, con đường mà Ngài đi tới cùng, tới thập giá, nhờ đó Ngài thực thi hòa bình và phá hủy sự thù nghịch (x. Ep 2,14-16). Vì thế ai đón nhận Tin Mừng của Chúa Giêsu, thì biết nhận ra bạo lực mang trong mình và để cho lòng thương xót của Thiên Chúa chữa lành, nhờ đó họ trở thành dụng cụ hòa giải, theo lời khuyên của thánh Phanxicô Assisi: ‘Hòa bình mà các con loan báo bằng miệng, các con hãy có hòa bình ấy dồi dào hơn nữa trong tâm hồn các con’”.

Noi gương Mẹ Maria, mỗi Kitô hữu được mời gọi sống trong sự tín thác vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa; đồng thời nỗ lực xây dựng một thế giới bất bạo động dựa trên tinh thần Tin Mừng: sự thật, công lý, tự do và tình thương.

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây